Một trong những công ty sản xuất xe 2 bánh có lịch sử khá dài trải qua cuộc chiến tranh xe gắn máy khốc liệt tại Nhật Bản gần 3 thập niên đã buộc phải đóng cửa vào năm 1968.

Sản xuất sau khi Thế Chiến II chấm dứt, xe scooter Rabbit ra đời trước xe Piaggio Vespa khoảng gần 6 tháng, người ta tự hỏi Nhật hay Ý là người đầu tiên tung ra thị trường loại xe scooter?
Từ Nakajima Airplane Co. đến Fuji Heavy Industries

Lui ngược dòng lịch sử nguồn gốc của xe scooter Fuji Rabbit từ trước Thế chiến II (1939-1945). Trong năm 1917, như người ta đã nhận thấy được vai trò chiếc máy bay đầu tiên của họ trong những  trận chiến đấu trên bầu trời trong Thế chiến I (1914-1918), Chikuhei Nakajima thành lập Aircraft Research Laboratory ở Nhật Bản. Năm 1931, Aircraft Research Laboratory đã được đổi tên thành "Nakajima Aircraft Co." và mở rộng từ nghiên cứu để sản xuất máy bay. Tại một thời điểm hảng máy bay Nakajima là nhà sản xuất hàng đầu của Nhật Bản và cung cấp việc làm cho hơn 250.000 người.

Photobucket
 Một trong những sản phẩm đầu tiên của Nakajima Aircraft Co. - Nakajima A1N

Công ty Nakajima là nhà sản xuất máy bay đầu tiên ở Nhật bản, được chính thức thành lập vào năm 1918 bởi một kỹ sư cơ khí hàng hải Chikuhei Nakajima và một nhà kỹ nghệ dệt Seibei Kawanishi dưới tên gọi là Nihon Hikoki (Nippon Aircraft). Năm 1919, hai nhà sáng lập chia tay và Nakajima đã mua lại nhà máy sản xuất máy bay Nihon với sự giúp đỡ ngầm từ quân đội Hoàng gia Nhật Bản. Công ty được đổi tên thành Công ty Máy bay Nakajima trong năm 1919.

Photobucket
Nakajima L2D là một sản phẩm chế tạo nhượng quyền của máy bay Douglas DC-3

Những cơ sở sản xuất máy bay của công ty chế tạo máy bay Nakajima được liệt kê dưới đây: 
  • Nhà máy Tokyo
  • Nhà máy Musashino
  • Nhà máy Donryu
  • Nhà máy Ota, gần cạnh Ota Station. Được Hoàng đế Hirohito viếng thăm vào ngày 16 tháng mười một năm 1934. Bị Không quân Hoa Kỳ dội bom nặng nề trong Thế Chiến II vào ngày 10 tháng hai năm 1945. Hiện nay là nhà máy của Fuji Heavy Industries.
  • Nhà máy Koizumi, gần Nishi-Koizumi Station. Bị ném bom nặng nề vào ngày 3 tháng tư năm 1945. Nay là nhà máy Sanyo.

Photobucket
Một trong những chiếc máy bay do Nakajima sản xuất trong Thế Chiến II: Nakajima Kate B5N cho Hải Quân Hoàng Gia Nhật Bản

Tổng cộng lại công ty Nakajima sản xuất từ năm 1927 đến năm 1945 trên 30 loại máy bay đủ loại, từ máy bay vận tải dân dụng đến máy bay chiến đấu, ném bom, phi cơ quan sát và các loại máy bay đáp trên mặt nước cùng với nhiều kiểu mẩu máy bay gắn động cơ phản lực. 

Photobucket
Một phi cơ phản lực nghênh cản do Nakajima chế tạo trong vòng thử nghiệm vào cuối Thế Chiến II: The Nakajima Kikka (中島 橘花 "Orange Blossom" - "Nụ hoa cam") và còn được gọi là Kōkoku Nigō Heiki (皇国二号兵器 "Imperial Weapon No.2" - "Vũ khí Hoàng Gia số 2").

Sau khi Nhật Bản thất trận và đầu hàng quân Đồng Minh vào năm 1945. Hoà bình được tái lập ở Thái Bình Dương, quân Đồng Minh buộc Nhật Bản phải ngưng sản xuất vũ khí và chiến đấu cơ. Công ty Nakajima phải đóng cửa và đổi thành Fuji Sangyo Company, trở thành một công ty sản xuất những thiết bị nhẹ dành cho việc vận tải dân sự rất cần thiết sau chiến tranh. Do đó công ty bắt tay vào việc chế tạo xe scooter Fuji Rabbit vào tháng sáu năm 1946.

Photobucket
Một xe scooter Rabbit đầu tiên vào năm 1946

Xe Scooter Fuji Rabbit

Khởi động việc sản xuất xe scooter của công ty Fuji là những chiếc xe dựa trên mẩu mã của chiếc xe scooter Powell Streamliner do Powell Manufacturing Company ở Hoa Kỳ sản xuất đặc biệt giới hạn cho các đơn vị lính nhẩy dù Hoa Kỳ sử dụng và họ mang đến Nhật Bản. Xe Rabbit S-1 được thiết kế với động cơ 2-thì, 1 xy-lanh 135cc và 2 mã lực, xe cân nặng 75 kg và đạt tốc độ 60 km/giờ. Hảng Fuji tận dụng tối đa những cơ phận trong việc sản xuất máy bay còn lại, do đó bánh xe đằng trước của xe scooter Rabbit là chiếc bánh sau của một kiểu máy bay ném bom.

Photobucket
Dựa vào mẩu mã xe Powell Streamliner chế tạo đặc biệt cho các đơn vị nhẩy dù cơ động Hoa Kỳ chiếm đóng trên nước Nhật bại trận, Fuji Sangyo chế tạo ra xe Rabbit cung ứng cho nhu cầu đi lại của dân chúng.

Về chiếc xe Rabbit S-1, công ty Fuji Sangyo sản xuất đợt đầu với 538 xe thiết kế động cơ 2-thì, đến tháng hai 1947 những xe Rabbit được gắn động cơ 135cc 4-thì mát máy bằng gió. Xe scooter nầy xuất hiện trên thị trường Nhật Bản cùng lúc với kiểu xe sản xuất bởi công ty Mitsubishi là chiếc scooter Silver Pigeon, có tất cả 56.499 xe Rabbit S-1 được sản xuất tính đến năm 1954.

Photobucket
Kiểu xe Fuji Rabbit S1 với phần cải tiến chi tiết và sản xuất đại trà

Trong năm 1950, chính phủ Nhật Bản buộc công ty Fuji Sangyo phân tán ra khoảng hơn 10 công ty con. Chỉ còn một công ty mang tên Fuji là Fuji Heavy Industries tiếp tục sản xuất các xe Rabbit và đồng thời cũng chế tạo các kiểu xe buýt và một kiểu xe 3 bánh kỳ lạ là chiếc xe Fuji Cabin.

Photobucket
Một xe 3 bánh sản xuất bởi Fuji Heavy Industries: Fuji Cabin

Vào năm 1957, công ty Fuji mở chi nhánh Rabbit Motor Sales tại San Francisco và việc xuất cảng xe Rabbit qua Hoa Kỳ bắt đầu. Không lâu sau đó, tại Canada cũng nhập xe Rabbit vào nước nầy bởi nhà nhập cảng Malcom Bricklin.

Photobucket

Photobucket
Những quảng cáo đăng trên các tạp chí ở Hoa Kỳ và tài liệu về xe Fuji Rabbit

Trong số các loại xe Rabbit tiếp tục phát triển nâng cấp và hiện đại hoá trước những xe 2 bánh khác trên thị trường, đặc biệt là các kiểu xe có khởi động máy bằng điện, hộp số tự động và bộ nhún giảm chấn bằng thủy lực cùng với hơi ép mãi cho đến khi công ty Fuji ngưng sản xuất xe Rabbit vào năm 1968. Có tổng cộng trên dưới 40 kiểu xe được sản xuất bởi Fuji Sangyo, với những động cơ từ 90cc đến 250cc.

Photobucket
Một xe Fuji Rabbit S23- động cơ 4T 135cc 2 mã lực - 2.522 xe sản xuất từ 1950 đến 1951

Photobucket
Xe Fuji Rabbit S61 - động cơ 4T 222cc 5,9 mã lực - 49.129 xe sản xuất từ 1954 đến 1957

Photobucket
Xe Fuji Rabbit S82 - động cơ 2T 148cc 7,5 mã lực - 36.240 xe kiểu S82, S82-2 và S82B
Rabbit S82S - động cơ 2T 123cc 6,2 mã lực - 34.650 xe xuất xưởng

Rabbit S82K - động cơ 2T 123cc 6,2 mã lực với 23.980 xe sản xuất từ 1960 đến 1962

Photobucket
Xe Fuji Rabbit S211 - động cơ 2T 87cc 5,5 mã lực - 21.564 chiếc xuất xưởng từ 1966-1968

Photobucket
Xe Fuji Rabbit S301 - động cơ 2T 125cc 8 mã lực, sản xuất từ 1961 đến 1968 với 137.448 chiếc

Photobucket
Xe Fuji Rabbit S601 1964 - động cơ 2T 199cc 11 mã lực với 74.694 xe nhiều phiên bản khác nhau xuất xưởng từ 1962 đến 1968

Photobucket

Photobucket

Photobucket

Photobucket
Một xe Fuji Rabbit S601 Superflow kiểu năm 1960

Photobucket
Một xe Rabbit Touring 150 (S402) động cơ 2T 150cc 7,5 mã lực (S402A và S402AT) 9,5 mã lực (S402BT, S402BT2 và S402BT4) với 4.648 chiếc xuất xưởng từ 1962 đến 1968 - Vào khoảng cuối thập niên 60 ở Sài Gòn thỉnh thoảng người ta thấy có vài xe Rabbit kiểu nầy do người Mỹ làm công tác dân sự vụ sử dụng

Photobucket

Photobucket
Một xe Fuji Rabbit 90 có bánh xe lớn hơn kiểu scooter và nhỏ hơn xe mô-tô được sản xuất để cạnh tranh với các loại xe 'step thru' như Suzuki, Yamaha và Honda Cub mà sau này Honda cũng sản xuất loại Cub 'lùn' đáp ứng lại hình vóc phụ nữ Á châu. Kiểu S202 - Động cơ 2T 89cc 5,5 mã lực với hộp số gồm 3 số, tốc độ khoảng 100 km/giờ - 26.924 xe xuất xưởng từ 1962 đến 1967

Từ Fuji Rabbit đến xe Subaru

Trong thập niên 60, khi mà việc xuất cảng xe Rabbit đang phát triển mạnh mẽ thì công ty Fuji Heavy Industries quyết định đóng cửa chi bộ sản xuất xe 2 bánh để tập trung vào việc sản xuất xe ô-tô mà kiểu đầu tiên là xe Subaru 360.

Photobucket

Thật vậy, Fuji đã sản xuất từ giửa thập niên 50 một số xe nhỏ gọn mà chiếc xe Subaru 360 đáp ứng lại nhu cầu dân chúng tại Nhật Bản: đơn giản và tiết kiệm với 4 chổ ngồi và chiều dài xe không quá 3 mét, Subaru 360 có kích cở tựa như chiếc xe Fiat 500 đời 1. Xe Subaru 360 đạt được sự yêu mến của các gia đình nhật sau chiến tranh và họ gọi chiếc Subaru 360 là "Ladybug". Với trọng lượng 385 kí-lô (18% nhẹ hơn chiếc Fiat 500) xe đạt được tốc độ tối đa 80 km/giờ với 4 người trong xe.

Photobucket
Một xe Subaru 360 được trưng bày trong cuộc Triển Lảm Xe 2013 tại Genève, Thụy Sĩ
Ngày nay, xe Subaru với những phiên bản xe du lịch và đặc biệt là các kiểu xe thể thao nổi tiếng dựa vào kỹ thuật cơ khí hàng không từ hảng Nakajima, mà ngày nay Subaru được biết đến trên toàn thế giới với chiếc xe vô địch chạy băng đồng Subaru Impreza WRC.

Photobucket
Một kiểu xe Subaru đua đường băng đồng - Subaru Impreza WRC


Hầu như các tập đoàn công nghệ cơ khí Nhật Bản phục vụ nhu cầu quốc phòng trong Đệ Nhị Thế Chiến 1939-1945 sau khi Nhật Bản bại trận và bị quân Đồng Minh chiếm đóng, các nhà máy sản xuất súng đạn, máy bay, xe tăng và tầu chiến đều ngưng hoạt động. Tập đoàn Mitsubishi không là ngoại lệ, với những phi cơ ném bom và chiến đấu như chiếc Mitsubishi Zero nổi tiếng trong Đệ Nhị Thế Chiến 1939-1945, Mitsubishi đã quay sang công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và chiếc xe scooter Mitsubishi Silver Pigeon là một trong những sản phẩm Nhật Bản sau cuộc chiến.
Sơ lược lịch sử xe scooter Silver Pigeon - 新三菱重工 シルバーピジョン

Công ty Mitsubishi đầu tiên là một công ty chuyển hàng thành lập bởi Yataro Iwasaki (1834–1885)  vào năm 1870. Năm 1873, tên công ty được đổi thành Mitsubishi Shokai (三菱商会). Tên Mitsubishi (三菱) có hai phần: "mitsu" có nghĩa là "ba" và "hishi" (sau đó trở thành "bishi" ở từ giữa) có nghĩa là "củ ấu", loại củ có hình chữ thập, sau đó trở thành biểu tượng nổi tiếng của Mitsubishi mà ở tây phương người ta gọi là thương hiệu 3 hạt kim cương.

Photobucket
Yataro Iwasaki (1834–1885)
Công ty chuyển sang lĩnh vực khai thác than năm 1881 sau khi mua mỏ than Takashima và đảo Hashima năm 1890, sử dụng sản phẩm làm nguyên liệu cho đội tàu thủy hơi nước. Công ty cũng bắt đầu đa dạng hóa kinh doanh sang các lĩnh vực đóng tàu, bảo hiểm, xếp gỡ hàng và thương mại. Sau này sự đa dạng hóa được tiếp tục với việc Mitsubishi xâm nhập thêm vào các lĩnh vực khác như sản xuất giấy, thép, thủy tinh, hàng điện tử, tàu sân bay, khai thác dầu mỏ và bất động sản. Khi Mitsubishi xây dựng thành một nghiệp đoàn lớn, nó đóng vai trò quan trọng trong quá trình hiện đại hóa công nghiệp Nhật Bản.
Photobucket
Mitsubishi A6M Zero là chiến đấu cơ ném bom chủ lực của Hải Quân Hoàng Gia Nhật Bản trong Đệ Nhị Thế Chiến 1939-1945

Trong suốt chiến tranh thế giới thứ II, Mitsubishi sản xuất tàu sân bay và máy bay chiến đấu, dưới sự chỉ đạo của Jiro Horikoshi. Mitsubishi Zero là máy bay tiêm kích chủ lực hoạt động trên tàu sân bay. Nó được các phi công của Hải quân Hoàng Gia Nhật Bản sử dụng trong trận đánh Trân Châu Cảng ngày 7 tháng 12 năm 1941 và trong rất nhiều lần khác, bao gồm cả trong các cuộc tấn công cảm tử Thần phong - 神風 - Kamikaze.
Photobucket
Máy bay ném bom hạng nhẹ Mitsubishi G4M1 "葉巻" Hamaki (Cigar) hoặc được quân Đồng Minh gọi là Betty thuộc Hải Quân Hoàng Gia Nhật Bản

Sau chiến tranh, nước Nhật cần các phương tiện giao thông và chuyên chở rẻ tiền, Mitsubishi bắt tay vào việc sản xuất xe scooter đáp ứng lại nhu cầu về mặt hàng tiêu dùng của người nhật.

Các kiểu xe Silver Pigeon

Photobucket
Một xe 3 bánh Mitsubishi Mizushima (1946-1962) được sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu vận chuyển hàng hoá tại Nhật Bản

Sau Thế chiến II, Nhật Bản không được quyền sản xuất vũ khí hoặc máy bay. Mitsubishi, một trong những nhà sản xuất các máy bay chiến đấu tốt nhất của quân đội Nhật Bản phải chuyển ngành. Song song với xe ba bánh Mizushima, một chiếc xe tay ga 2 bánh nhỏ gọi là scooter Silver Pigeon được ra mắt công chúng vào năm 1946.
Photobucket
Kiểu xe scooter đầu tiên Mitsubishi Silver Pigeon C10 năm 1946

Silver Pigeon là một đối thủ cạnh tranh trực tiếp với Fuji Rabbit của tập đoàn Fuji Heavy Industries. Động cơ xi lanh nhỏ bé của Mitsubishi với dung tích 112 cm3 và công suất 1,5 mã lực, được mát máy bằng gió và được lấy cảm hứng từ xe Husky của Hoa Kỳ. Những cơ phận lỗi thời từ máy bay được sử dụng cho việc sản xuất xe Silver Pigeon, như những bánh xe là bánh xe của đuôi máy bay.
Photobucket
Mitsubishi Silver Pigeon C11 năm 1948 là kiểu xe cải tiến từ xe C10

Photobucket
Mitsubishi Silver Pigeon C25 năm 1950, động cơ 150cc, máy đơn 4 thì, truyền động bằng dây đai

Photobucket
Mitsubishi Silver Pigeon C70 năm 1955 với máy 125cc 2 thì

Thành công đến ngay lập tức không phải chờ đợi lâu. Bởi thiếu phương tiện quan trọng về giao thông vận tải sau cuộc chiến, sự thất bại trong kỹ nghệ quốc phòng của Mitsubishi lại mang tiện ích trong việc sản xuất xe máy. Những xe ba bánh Mizushima được sử dụng để vận chuyển và cung cấp hàng hoá ở ngoài thành phố, nhưng đối với giao thông trong đô thị, xe tay ga scooter thật là hoàn hảo.
Photobucket
Mitsubishi Silver Pigeon C75 năm 1956

Photobucket
Mitsubishi Silver Pigeon C76 năm 1956 cùng với kiểu C75 được cải tiến từ xe C70 (1955)

Photobucket
Mitsubishi Silver Pigeon C80 tại Nhật Bản năm 1957, dựa từ kiểu xe nầy, công ty Rockford Illinois bắt đầu nhập vào thị trường xe máy ở Hoa Kỳ

Silver Pigeon được nhập khẩu vào Hoa Kỳ do Công ty Rockford xe tay ga ở Illinois đảm nhận vào năm 1958.


Photobucket

Photobucket
Một quảng cáo xe Silver Pigeon của công ty Rockford Illinois và kiểu xe C90 được nhập vào thị trường Hoa Kỳ

Với những động cơ 2 và 4 thì được sử dụng với chuyển vị lên đến 210 cm3 cho kiểu xe C-111 sản xuất năm 1960. Những kiểu xe cuối cùng được sản xuất với máy đôi 4 thì dung tích 125 cm3 hoặc 143 cm3 với bộ truyền động 3 tốc độ. Công suất tối đa là 8 và 9,2 mã lực.
Photobucket

Photobucket
Những kiểu xe Mitsubishi Silver Pigeon C120 và C240 cuối cùng được sản xuất năm 1963

Có lẻ sự cạnh tranh ngày càng tăng của các công ty xe tay ga Nhật Bản khác đã đưa Mitsubishi đến quyết định ngưng sản xuất xe máy scooter để tập trung vào kinh doanh ô tô đã được khởi xướng bởi kiểu xe 500 (tiền thân của dòng xe Mitsubishi Colt) vào năm 1959.

Năm sản xuất
Kiểu xe
Đặc tính
1946
C-10
NE 10, 125cc, máy đơn 4 thì, 1,5 mã lực, 70 Kg
1948
C-11
Phiên bản C-10 cải tiến
1950
C-25
150cc, máy đơn 4 thì, truyền động bằng dây đai
1953
C-26

1955
C-57
192cc, máy đơn
1955
C-70
125cc, máy 2 thì
1957
C-90
200cc
1958
C-93
210cc
1960
C-111
210cc, máy 4 thì
1960
C-200
125cc, máy 2 thì
1960
C-300
125cc, máy 2 thì
1960
C-76
192cc, máy 4 thì
1960
C-110
175cc
1960
C-300
125cc, máy đơn 2 thì
1961
C-110
175cc, máy 2 thì, 8,3 mã lực
1963
C-140
125cc, máy đôi 4 thì, 8 mã lực, 3 số, 143 Kg
1963
C-240
143cc, máy đôi 4 thì, 9,2 mã lực, 3 số, 143 Kg


Photobucket
Một xe Mitsubishi Silver Pigeon CL10 năm 1960 là một kiểu xe bánh lớn nhằm cạnh tranh với xe Fuji Rabbit 90 và cũng là kiểu xe 'Step Thru' dành cho phụ nữ

Photobucket
Một tờ quảng cáo xe Mitsubishi Silver Pigeon Gale Pet 50cc năm 1961. Mitsubishi Heavy Industries, Ltd. có thể bán xe tay ga của mình nhưng gặp khó khăn và đã đề nghị với công ty Marusho Motorcycle Industrial Co. đồng ý rằng công ty Marusho sẽ sản xuất kiểu xe AS-71 dưới tên "Silver Pigeon Galepet". Kế hoạch này là Mitsubishi cho Marusho vay tiền để xây dựng một nhà máy sản xuất. Nhà máy hoàn chỉnh tốn đến 3 tỷ ¥ từ dự án Mitsubishi. Ước tính ban đầu của Mitsubishi sẽ giảm xuống 10.000 xe nhưng điều này đã nhanh chóng được sửa đổi xuống 6000 và sau cùng là 3000 chiếc xe. Mitsubishi cuối cùng bỏ rơi toàn bộ hoạt động và chỉ đóng góp 50.000.000 ¥ cho Marusho. Masashi Ito, chủ sở hữu của Marusho, đã đầu tư hết 150.000.000 ¥. Công ty của ông đã bị phá sản sau khi thỏa thuận này không thành công.

Mitsubishi Silver Pigeon sản xuất cho đến năm 1963.

Tập đoàn Mitsubishi sau khi ngưng sản xuất xe Silver Pigeon

Vì quá trình đa dạng hóa, Mitsubishi sau đó đã thành lập ba công ty con:

-   Mitsubishi Bank (giờ là một phần Mitsubishi UFJ Financial Group) thành lập năm 1919. Sau khi sáp nhập với ngân hàng Tokyo năm 1996, và UFJ Holdings năm 2004, Mitsubishi Bank trở thành ngân hàng lớn nhất Nhật Bản.

-   Mitsubishi Corporation, thành lập năm 1950, công ty thương mại lớn nhất Nhật Bản.

-   Mitsubishi Heavy Industries, bao gồm ba công ty công nghiệp:
     ▪   Mitsubishi Motors, nhà sản xuất ô tô lớn thứ 6 của Nhật Bản.
     ▪   Mitsubishi Atomic Industry, một công ty năng lượng nguyên tử.
     ▪   Mitsubishi Chemical Holdings, công ty hóa chất lớn nhất Nhật Bản. 

Photobucket
Một quảng cáo xe ô-tô Mitsubishi 500 trên báo nhật

Photobucket

Photobucket
Xe Mitsubishi 500 là kiểu xe hạng nhẹ đầu tiên được sản xuất từ năm 1960 đến 1962. Trang bị với 2 động cơ 493cc và 594cc 4 thì, 2 cửa, nặng 490 Kg là loại xe nhỏ rất tiện nghi trong các đường phố nhỏ hẹp.

Sau việc ngưng sản xuất xe scooter Silver Pigeon, Mitsubishi tập trung vào việc sản xuất xe vận tải, xe ô-tô du lịch nhẹ và xe thể thao. Ngoài ra Mitsubishi còn sản xuất nhượng quyền loại xe 4x4 cuả Willys dành cho quân đội mà kiểu xe CJ3 đã được sử dụng trong thời kỳ chiến tranh tại Việt Nam.
Photobucket

Photobucket
Hai kiểu xe Mitsubishi Colt đầu tiên thay thế cho kiểu 500 vào cuối năm 1962

Photobucket
Xe Jeep Mitsubishi CJ3 chế tạo nhượng quyền của Willys được sử dụng bởi Quân Đội VNCH ở miền nam Việt Nam trong đầu thập niên 1960 (hình của John Dominis - Time-Life Magazines)

Trong việc sản xuất công nghệ quốc phòng cho Quân Đội Phòng Vệ Nhật Bản, Mitsubishi đã sản xuất nhượng quyền một số máy bay của Hoa Kỳ trong thời kỳ Chiến Tranh Lạnh, ngày nay Mitsubishi tiếp tục cung cấp máy bay tiêm kích, chiến đấu và huấn luyện cho Không Quân Nhật bản cũng như những kế hoạch sản xuất máy bay dùng trong hàng không dân sự.
Photobucket
Mitsubishi F-104J Starfighter chế tạo nhượng quyền từ công ty Lockheed cho Không Lực Phòng Vệ Nhật Bản sử dụng suốt thời kỳ Chiến Tranh Lạnh

Photobucket
Mitsubishi F-15J và F-15CJ Eagle chế tạo nhượng quyền từ công ty McDonnell Douglas là chiến đấu cơ chính trong Lực Lượng Phòng Vệ Nhật Bản hiện nay

Photobucket
Mitsubishi F-1"Supersonic Rei-Sen" là phi cơ chiến đấu đầu tiên của Không Lực Phòng Vệ Nhật Bản sau Đệ Nhị Thế Chiến, sản xuất bởi Mitsubishi Heavy Industries dựa trên kiểu Mitsubishi T-2

Photobucket
Mitsubishi F-2 là phi cơ chiến đấu và nghênh cản của Không Lực Phòng Vệ Nhật Bản, chế tạo bởi Mitsubishi Heavy Industries dựa trên kiểu phi cơ General Dynamics F-16 Fighting Falcon của Hoa Kỳ

Photobucket
Mitsubishi MU-2 là phi cơ chuyên chở hạng nhẹ được sử dụng trong Không Lực Phòng Vệ Nhật Bản cũng như trong hàng không dân sự

Photobucket
Mitsubishi T-2 là phi cơ huấn luyện, một phiên bản từ phi cơ chiến đấu Mitsubishi F-1, sử dụng bởi Không Quân Phòng Vệ Nhật Bản đến năm 2006, được thay thế bởi phi cơ Kawasaki T-4

Vào năm 1970, Các công ty con của Tập Đoàn Mitsubishi thành lập Mitsubishi Foundation để kỉ niệm 100 năm ngày thành lập của công ty. Tính đến năm 2007, Mitsubishi Corporation, một thành viên của tập đoàn Mitsubishi, là công ty thương mại lớn nhất Nhật Bản với hơn 200 cơ sở hoạt động tại khoảng 80 quốc gia trên thế giới. Cùng với hơn 500 công ty con, Mitsubishi có khoảng 54,000 nhân công làm việc trên khắp thế giới.
Photobucket
Một xe Mitsubishi Pajero chế tạo đặc biệt để đua đường trường Paris-Dakar, Mitsubishi đã thắng giải nhiều năm liên tiếp mang đến danh tiếng về chất lượng bền vửng cho kiểu xe Mitsubishi 4x4 Pajero

Photobucket
Một xe thể thao Mitsubishi Lancer hiện nay
  
Photobucket
Dự án chế tạo máy bay dân dụng Mitsubishi MRJ - Mitsubishi Regional Jet khởi động vào năm 2014

Photobucket
Một trong những sản phẩm cũa Tập Đoàn Mitsubishi: Máy ảnh DSLR Nikon (Nikon là một công ty con của Mitsubishi), trên đây là 2 hộp máy ảnh nhà nghề Nikon D4 và D800 vừa ra mắt năm 2012-2013