Có thể nói rằng một trong những chiếc xe 2 bánh có động cơ theo tiêu chuẩn quốc tế đầu tiên của Nhật Bản là chiếc xe mô-tô Asahi AA vào năm 1933 do nhà sản xuất súng Miyata Seisakusho chế tạo.

Nhật Bản là một quốc gia có nhiều người hâm mộ và sử dụng xe mô-tô, trước năm 1900, người nhật đã tổ chức những cuộc đua xe 2 bánh cho những người hâm mộ xe mô-tô vào đầu thế kỷ trước, đa số các kiểu xe mô-tô được nhập từ Anh Quốc. Do kinh tế toàn cầu suy thoái năm 1929, nước Nhật phải hạn chế việc nhập cảng các xe mô-tô nên một số nhà máy cơ khí thoạt đầu sản xuất các cơ phận rời thay thế cho những xe mô-tô đã sử dụng trong nước, dần dần tiến đến việc sản xuất toàn bộ chiếc xe dựa trên mẩu mã các loại xe mô-tô Châu Âu.
Nhật Bản sau Đệ Nhị Thế Chiến 1939-1945 hoang tàn, cần phải xây dựng lại và phát triển kinh tế, những nhà máy chuyên sản xuất súng đạn, máy bay, tầu chiến... quay sang sản xuất các món hàng tiêu dùng, máy móc sử dụng trong gia-đình, xe cộ. 

Sang thập niên 50 và 60 - là cuộc chiến sống còn của các nhà sản xuất xe 2 bánh như xe đạp, xe gắn máy và mô-tô mà hảng Miyata phải bỏ cuộc vào năm 1960 và trở về việc sản xuất xe đạp - những chiếc xe 2 bánh gắn máy cuối cùng như Miyapet chỉ còn là huyền thoại.

Miyata Motorcycles - ミヤタオートバイ  
Từ sản xuất súng đạn đến chiếc xe đạp

Từ một nhà nông với tên là Miyata Eisuke (1840-1900) đeo một khẩu súng đúc bằng thép với kỹ thuật của nhà Kunitomo làm cận vệ cho gia tộc Mito, khi gia tộc Mito sụp đổ, ông ta được gia tộc Kasama thâu dụng như là thầy dạy sử dụng súng. Qua giai đoạn Minh Trị Duy Tân (1871), chế độ phục dịch đã bị bải bỏ, ông ta trở thành người phu xe kéo.

Kể từ năm 1876 lúc ông ta ở khu phố Ginza được giới thiệu đến tổng súng Tokugawa Okakae và người con trai thứ hai của ông, Miyata Eitaro (1865-1931) được Kunitomo Noboyuki thâu dụng làm đệ tử. Phần ông Eisuke làm việc trong kho vũ khí pháo binh của quân đội tại Tokyo Koishikawa.

Từ năm 1881, Miyata thành lập văn phòng tại tổng Kyobashi Kobiki thuộc quận Ginza, Tokyo và khởi công nghiên cứu kỹ thuật chế tạo súng và đạn tại xưởng Miyata Manufacturing. Năm 1889, có một người ngoại quốc ở gần xưởng yêu cầu vài nhân viên Miyata giúp ông ta sửa chửa một chiếc xe đạp, tuy không phải là việc của họ, nhân viên Miyata đã sửa chửa chiếc xe đạp và không lâu sau đó những người ngoại quốc đều mang xe đạp đến xưởng Miyata nhờ sửa chửa và bảo trì, từ việc nầy, công ty Miyata lại chuyển sang việc nghiên cứu và sản xuất xe đạp đáp ứng nhu cầu sử dụng của công chúng và đặc biệt cho Quân đội Nhật Bản, trong khi đó Miyata đã đăng ký cầu chứng 12 loại súng săn mang nhản hiệu Miyata.

Do việc sửa chửa và bảo trì xe đạp thành công, cơ xưởng sản xuất súng đạn được dời về Kikukawamachi (trên tuyến đường xe điện ngầm Shinjuku ngày nay) ở Tokyo vào ngày 15 tháng tư 1890, cở sở cũ tiếp tục sửa chửa xe đạp và cơ xưởng mới sản xuất khoảng 500 khẩu súng hàng tháng dưới danh hiệu Miyata Gun Works.


Năm 1893, Miyata tung ra thị trường xe đạp dành cho công chúng, tuy nhiên việc sản xuất xe đạp ngừng lại vì cuộc chiến Trung-Nhật 1894-1895, Miyata cung cấp cho quân đội Hoàng Gia Nhật những súng trường và súng phóng lựu. Việc đạo luật về săn bắn được tu chỉnh vào năm 1901 đã làm giảm mức sản xuất các loại súng săn của hảng Miyata, tuy nhiên công việc sản xuất đạn cho quân đội Hoàng gia Nhật vẫn tiếp tục suốt cuộc chiến với nước Nga (1904-1905). Về việc sản xuất xe đạp, năm 1902 hảng Miyata đổi tên thương hiệu thành Miyata Seisakusho để tránh nhầm lẩn với những khẩu súng Miyata.

Photobucket
Chiếc xe đạp Miyata đầu tiên 1890

Sau khi ông Eisuke qua đời, người con Eitaro quay qua việc sản xuất xe đạp đại trà, thoạt đầu các kỹ sư Miyata dựa trên mẩu mã một chiếc xe đạp nhập từ Canada để nghiên cứu chi tiết. Eitaro lấy lại tên thương hiệu cũ là Miyata Manufacturing và tung ra kiểu xe đạp mới lấy tên là Asahi dựa trên kiểu xe đạp Anh Quốc - kiểu xe Cleveland 103.

Từ xe đạp đến xe mô-tô

Từ năm 1903 đến 1909, Miyata khởi động nhà máy mới tại Kikukawa, thuộc quận Honjo, Tokyo chế tạo xe đạp cạnh tranh với xe đạp giá rẻ nhập từ Hoa Kỳ. Miyata đã tham dự những cuộc triển lảm kỹ nghệ quốc gia Nhật Bản và đoạt được nhiều giải thưởng. Kế tiếp Miyata được cấp bằng sáng chế bộ giò diã xe đạp "M-gear" và bắt đầu xuất cảng xe đạp sang Trung Hoa, đồng thời cung cấp xe đạp Miyata Asahi cho quân đội Nhật Bản.


Miyata bắt đầu việc sản xuất xe mô-tô vào năm 1910, thoạt tiên dựa trên mẩu mã của xe mô-tô Triumph nhập cảng từ Anh Quốc, đồng thời cũng nghiên cứu việc sản xuất xe ô-tô hạng nhẹ và tiếp tục sản xuất xe đạp thừa kế từ kinh nghiệm sử dụng các ống thép trong việc sản xuất súng săn cải biến thành việc sản xuất các khung sườn xe dể dàng. Eitaro ngưng việc sản xuất vũ khí và đặt chú tâm vào việc chế tạo cơ khí.

Photobucket
Chiếc xe mô-tô đầu tiên Asahi 1914

Trong những năm ấy, tại Nhật Bản có tổ chức những cuộc triển lảm khuyến khích công nghệ trong nước, đặc biệt về công nghệ cơ khí. Miyata là một trong những công ty kỹ nghệ cơ khí đầu tiên tham gia vào việc sản xuất xe 2 bánh, do từ sự thiết kế xe đạp có sẳn kinh nghiệm nên từ đó Miyata chuyển sang việc xe đạp gắn động cơ không khó khăn cho lắm.


Photobucket
Xe mô-tô Asahi 175cc - 1933

Photobucket
Bộ máy xe Asahi 175cc

Vào năm 1914, Miyata nhập cảng một kiểu xe mô-tô Triumph từ Anh Quốc, sau khi mổ xẻ và xem xét cấu trúc của chiếc xe nầy, Miyata bắt tay vào việc sản xuất xe mô-tô. Cùng lúc, cơ xưởng Miyata chế tạo xe đạp đã được điện khí hoá từ năm 1912 giúp cho việc công nghiệp hoá trên dây chuyền sản xuất trở nên dể dàng. Sau khi nghiên cứu xong phần thiết kế của chiếc mô-tô Triumph, Miyata cho ra mắt kiểu xe mô-tô đầu tiên dưới thương hiệu Asahi với động cơ 4 thì, 3,5 mã lực cùng lúc với một xe ô-tô 4 bánh chở được 4 người với bộ máy 2 xy-lanh mát máy bằng nước. Cả hai sản phẩm được trưng bầy tại Hội chợ Triển lảm Khuyến khích Kỹ nghệ Ueno ở Tokyo vào năm 1914. Chiếc mô-tô Asahi được tiếp đón nồng nhiệt và đã được Bộ Nội Vụ Hoàng Gia Nhật đặt mua cho Cơ quan Cảnh Sát Đô Thị Tokyo.

Photobucket
 Xe Coventry Eagle

Photobucket
Xe Coventry Eagle II
Dựa trên 2 kiểu xe nầy nhập từ Anh Quốc, Miyata phát triển và sản xuất những xe mô-tô Asahi vào thập niên 1930.

Sau năm 1914, hảng Miyata thiết lập phân xưởng tại Kikukawamachi để đưa việc sản xuất thành dây chuyền, cơ xưởng nầy gánh chịu trận động đất Great Kantō Earthquake vào năm 1923 với tổn thất nặng, tuy nhiên hảng Miyata tái thiết nhanh chóng và hoàn tất trong năm ấy.

Năm 1926, Miyata gởi nhân viên đến Trung Hoa nghiên cứu thị trường xe đạp và khi Hiệp Hội Quốc Tế Đua Xe Đạp ở Thượng Hải thành lập vào tháng năm năm 1926 tổ chức cuộc đua, Miyata đã tham dự và các tay đua dưới thương hiệu nầy đã đoạt hạng nhất. Năm 1932, Miyata đã cung cấp cho Bộ Thông Tin Nhật Bản 5 nghìn chiếc xe đạp đặc biệt chế tạo cho nhân viên bưu tín và trong năm ấy, số lượng sản xuất xe mô-tô đã sánh bằng số lượng xe đạp xuất xưởng.


Photobucket
Asahi Car sản xuất năm 1937

Một lần nữa Miyata trở thành nhà cung cấp quân dụng cho quân đội khi Nhật Bản chiếm đóng Mãn Châu. Năm 1931, Miyata thành lập chi nhánh Công ty Sản xuất Miyata Mãn Châu với sự đóng góp của Sh
ōwa Company để kinh doanh các kiểu xe đạp và mô-tô.

Photobucket

Photobucket
Chiếc Mô-tô Asahi 175cc phiên bản sườn sơn thường - 1936

Năm 1934, Miyata mở thêm nhà máy sản xuất cơ phận rời cho máy bay ở Otaki, Chiba Prefecture. Trong khi trước đó, năm 1933 Miyata đã sản xuất một động cơ hoàn toàn mới 2-thì, mát máy bằng gió với dung tích 175cc và công suất 5 mã lực. Động cơ nầy được lắp ráp với bộ sườn bằng lá thép rập thành khuôn, tuy không chắc chắn như loại sườn xe bằng thép ống, nhưng thép lá dể kiếm trên thị trường hơn thép ống, đương nhiên chiếc xe được đặt tên là Asahi - loại mô-tô chế tạo dể điều khiển hơn và bán ra với giá rẻ hơn kiểu xe Harley Davidson nhập cảng từ Hoa Kỳ.

Sau một thời gian thử nghiệm chiếc mô-tô Asahi dưới những điều kiện khắc nghiệt như ở Mãn Châu với thời tiết -20°C, trên đường đất xấu xa gồ ghề dưới chân núi Mihara ở Izu Oshima, trong khi Miyata vẫn tiếp tục nhập cảng 29 chiếc xe mô-tô ngoại quốc từ khoảng năm 1935 đến năm 1938 để tiếp tục nghiên cứu cấu trúc vận hành của các loại xe nầy.

Photobucket

Photobucket
Chiếc mô-tô Asahi 175cc phiên bản mạ kền 1936 được tân trang ngày nay.

Chiếc Asahi được bán ra với giá ¥350 kiểu sơn thường và ¥370 cho kiểu xe mạ kền. Trong năm 1937, Miyata sản xuất 150 chiếc xe hàng tháng và qua năm 1938, Miyata mở thêm cơ xưởng mới tại Kamata, Tokyo trên khoảng rộng 4.765 mét vuông. Cơ xưởng mới nầy hoàn toàn thiết kế hiện đại với những dây chuyền sơn khung xe tự động và lắp ráp toàn bộ chiếc xe, sự phát triển nhanh chóng đến khi hoàn tất vào tháng tư 1938 đã có diện tích đến 13.462 mét vuông.

Miyata đã có chi nhánh thương mãi tại các thành phố Tokyo, Osaka và Fukuoka vào thập niên 30, nhờ sự trao đổi thương nghiệp với Brazil vào tháng chín 1936, Miyata bắt đầu xuất cảng nguyên chiếc mô-tô Asahi qua các nước Brazil, Mexico, Peru, Argentina và Venezuela, đánh dấu việc xuất cảng xe Miyata sang châu Mỹ.

Photobucket
Xe mô-tô Asahi FA2 250cc SV 1954 - 250cc; 7.6 mã lực với 4200 vòng máy/phút
Vào đầu năm 1937, Miyata lại xuất cảng xe mô-tô qua Trung Hoa và Ấn Độ, sự phát triển nhanh chóng đã cho phép Miyata xuất cảng 50% số xe sản xuất qua Trung Hoa, Đài Loan, Đại Hàn và Đông Ấn thuộc địa của Hoà Lan. Trong cuộc chiến với Trung Hoa vào tháng bảy 1937, xăng dầu trở nên khan hiếm, chính quyền Nhật Bản buộc phải giảm mức tiêu thụ nhiên liệu khiến cho các hội đua xe mô-tô tại Nhật đang phát triển tại Tokyo, Osaka, Kobe phải ngưng hoạt động và vì cuộc chiến nầy, Miyata phải ngưng việc xuất khẩu sản phẩm sang Trung Hoa, tuy nhiên việc buôn bán xe mô-tô qua các nước Mãn Châu, Ấn Độ, Đông Ấn thuộc Hoà Lan và các nước ở Trung và Nam Mỹ không bị ảnh hưởng.

Cũng như cuộc chiến với Trung Hoa đang xảy ra, kền và nhôm trở nên khan hiếm và xăng dầu, điện và than đá bị đặt dưới sự kiểm soát của chính quyền trong tình trạng chiến tranh. Tuy nhiên Miyata vẫn không ngừng phát triển bằng cách lập đại lý ở Formosa - Đài Loan, ở khu vực chiếm đóng tại Thượng Hải, và cuối năm 1939, công ty gởi người đi thăm dò thêm thị trường ở Châu Phi, Đông Ấn, Singapore và các nước ở Bắc, Trung và Nam Mỹ.

Sau tháng bảy 1937, trong cuộc chiến với Trung Hoa, Miyata vẫn tiếp tục gia tăng việc sản xuất các loại xe, đáp ứng song song với nhu cầu của quân đội. Cho đến năm 1939, Miyata phải giảm việc sản xuất dưới lệnh của chính quyền, đồng thời với nhu cầu cấp thiết của quân đội trưng thu nhà máy Kamata để sản xuất các cơ phận rời cho máy bay.

Nhưng dù sao công ty Miyata vẫn tiếp tục hoạt động để phát triển một kiểu xe mô-tô mới, sau khi tham khảo với Bộ Nội Vụ cùng Bộ Công Thương và Kỹ Nghệ vào năm 1941 mà các Bộ nêu ra một kiểu xe đáp ứng theo nhu cầu của dân chúng và quân đội, một xe mô-tô trang bị động cơ 4-thì, 350cc. Công ty Miyata được chọn để sản xuất kiểu xe mới nầy.

Khi đó Miyata với nguồn vốn ¥7,5 triệu trong thị trường chứng khoán, vào tháng ba 1941, Miyata mở thêm văn phòng nghiên cứu thiết bị cùng dây chuyền sản xuất cho kiểu xe mô-tô mới nầy. Có tất cả 5 kiểu xe thử nghiệm được hoàn thành mà 3 kiểu được đem trình duyệt ở Cơ quan Chỉ Huy Nghiên Cứu Võ Khí của Quân Đội Hoàng Gia Nhật trong khi 2 kiểu xe khác được giử lại tại văn phòng thử nghiệm tại công ty Miyata. Dựa trên các mẩu xe thử nghiệm nầy, Miyata đưa vào sản xuất các xe mô-tô 150cc, 175cc và 200cc cho nhu cầu đi lại của dân chúng và các toán quân ở tuyến đầu trận địa. Miyata cũng đưa vào sản xuất một kiểu xe đạp mà sườn xe xếp gọn lại được dành cho các đơn vị nhẩy dù, kiểu xe đạp xếp nầy được mang sau lưng các chiến sĩ hoặc được thả dù trên chiến trường.

Photobucket

Photobucket

Photobucket
Xe mô-tô Asahi Golden 250cc

Theo nhu cầu của Quân Đội Hoàng Gia Nhật trên vùng chiếm đóng, năm 1941, Miyata đã thiết lập những cơ sở sửa chửa xe đạp tại Kuching - Mã Lai, Sumatra và Java ở Indonesia, ở Singapore và ở Sài Gòn - Việt Nam cũng như một cơ sở chuyên sửa chửa xe mô-tô ở Borneo.  Tại Nhật Bản, Miyata mở một cơ xưởng mới ở Idegawa, Matsumoto City, Nagano Prefecture chuyên về việc sản xuất cơ phận rời xe đạp và bánh xe cho máy bay vào hè 1942. Khi ấy, lực lượng lao động trong cơ xưởng của Miyata lên đến 4.500 người trong 3 phân xưởng trên nước Nhật (Kamata, Matsumoto và Otaki) và vốn của công ty lên đến ¥15 triệu.

Chỉ tiêu của những lãnh đạo công ty Miyata là việc sản xuất máy bay dân sự nhưng bất thành. Tại Hoten, Mãn Châu, Miyata hợp tác với các công ty Dowa Automobile và Manchuria Aircraft nơi trại tập trung cưởng bách lao động mà người ta sử dụng nguồn nhân lực là những tù binh chiến tranh. Hàng nghìn người tù Trung Hoa, Mỹ, Anh, Liên Hiệp Anh cũng như người Mãn Châu, họ phải lao động trong cơ xưởng sản xuất Miyata Manchuria nhưng đến cuối Đệ Nhị Thế Chiến, nhà máy bị máy bay B-29 của Không Quân Hoa Kỳ dội bom phá hủy. Những nhân công nhà máy được hồi hương sau khi Nhật Bản đầu hàng quân Đồng Minh.

Photobucket

Photobucket
Vài chi tiết về xe Asahi Golden 250cc

Sau Đệ Nhị Thế Chiến, lực lượng lao động của Miyata giảm đi chỉ còn khoảng 1.500 người. Ngày 15 tháng chín 1945, Bộ Chỉ Huy Quân Đồng Minh Chiếm Đóng (GHQ) đã ra lịnh cho Miyata phải giải toả phân xưởng thứ 2 và thứ 3 (Matsumo và Otaki) trong vòng 24 giờ. Miyata chỉ còn tập trung lại tại nhà máy Kamata và chuyển đổi sang việc sản xuất vào thời bình, Miyata trở lại việc sản xuất cơ phận rời xe đạp cũng như một số lượng nhỏ về những chiếc bàn bằng nhôm luyện cứng và những sản phẩm gia dụng. Đến tháng giêng 1946, Bộ Chỉ Huy Quân Đồng Minh và Lực Lượng Đồng Minh Tối Cao giao trả lại cho Miyata 2 phân xưởng.

Từ mô-tô trở về xe đạp


Việc tái sản xuất xe mô-tô tại phân xưởng Otaki bắt đầu sau khi Quân Đồng Minh giao trả vào tháng tám 1946 sau cuộc thăm viếng của Thái Tử Aikihito đến để quan sát tình trạng hoạt động của nhà máy và nghe ý kiến của các lãnh đạo nhà máy. Nhà máy được đặt ưu tiên cho việc tái thiết quốc gia sau chiến tranh. Miyata nhận được sự hổ trợ và khuyến khích từ Hoàng Gia.

Photobucket
Một xe mô-tô Miyata OA 125cc sản xuất trong thập niên 1950

Vào tháng chín 1946, Miyata bắt đầu tung ra thị trường xe mô-tô 200cc cũng là kiểu xe mà công ty đã sản xuất trong thời kỳ chiến tranh. Không lâu sau đó vào tháng giêng 1947, Miyata tái thiết phân xưởng Matsumoto với những dụng cụ thiết bị và dây chuyền sản xuất mới, sự việc nầy cho phép Miyata xuất xưởng toàn bộ xe nguyên chiếc. Lực lượng lao động tăng lên 1.791 người vào năm 1949, tuy nhiên mức tiền lương giảm đi và xăng dầu hạn chế bởi chính phủ, Miyata ghi nhận chỉ có "Bác sĩ, phóng viên nhà báo và công chức nhà nước" mới có đủ khả năng mua sắm xe mô-tô.


Photobucket

Photobucket
Xe Miyapet B 50cc cuối thập niên 1950

Nhưng dù sao vào năm 1950, Miyata cũng sản xuất ra 2 kiểu xe mô-tô: Standard và Special tựa như 2 kiểu xe ra mắt vào những năm 1920. Năm 1952, các kỹ sư Miyata ngưng việc sản xuất các động cơ 2-thì và biến dây chuyền sản xuất qua động cơ 4-thì như các nhà sản xuất xe mô-tô ở Châu Âu. Nhà máy sản xuất ra toàn bộ động cơ hoàn chỉnh và hộp số nhờ vào việc thu mua những cổ máy cầu kỳ dùng vào việc sản xuất cơ phận từ Đức Quốc, Hoa Kỳ và vài nơi khác.
  
Photobucket
Xe kiểu scooter Miyapet Mammy

Photobucket
Xe Miyapet A20 50cc

Có những sản phẩm mới được chế tạo, kể cả bộ máy nhỏ 45cc 2-thì dùng vào việc biến cải những chiếc xe đạp thành xe gắn máy gọi là Mighty Auto xuất xưởng trong suốt năm 1950. Năm 1953, Miyata mở một cơ xưởng làm niềng bánh xe ở Singapore và để phô trương sự hiểu biết cũng như nghệ thuật về cơ khí, Miyata tham dự vào cuộc triển lảm đầu tiên All-Japan Motor Show ở Hibiya Park vào mùa xuân 1954. Cuộc triển lảm nầy dưới sự bảo trợ của các hiệp hội Japan Automobile Manufacturers, Midget Motor Manufacturers, Auto Body Manufacturers và Automobile Parts Manufacturers. Miyata tham dự triển lảm hàng năm và để nối chặt dây liên lạc với khách hàng, Miyata trưng bầy vài kiểu xe mô-tô ngay trong triển lảm Tokyo "Car Parade" năm 1956, nhắm vào mục tiêu khuyến mãi những sản phẩm Nhật Bản đang trên đà tiến bộ. Những sản phẩm của Miyata cũng được trung bày ở những hội chợ thương mại Thái Lan vào tháng mười 1956 và Singapore vào tháng hai 1957.

Photobucket
Tờ quảng cáo bộ máy gắn vào xe đạp Mighty Auto và xe Miyapet

Photobucket

Photobucket
Một chiếc xe Miyapet A20 ngày nay tại Thái Lan

Vào năm 1958, Những đại lý xe mô-tô, xe scooter và xe đạp ở Đông Á và Đông Nam Á bắt đầu nhập cảng lại vào nước những xe đạp Asahi, Miyata khởi động nhà máy sản xuất niềng bánh xe ở Johor, Mã Lai để xuất khẩu. Cũng cùng năm, công ty mở những khoá huấn luyện cho những nhân viên kỹ thuật trong nước làm việc ở các đại lý chuyên phụ trách dịch vụ sửa chửa và bảo hành các sản phẩm sau khi được bán ra - một cung cách như Alfred Child của công ty Harley Davidson tại Nhật Bản đã thực hiện trong suốt những thập niên 1920 và 1930.

Photobucket

Photobucket

Photobucket

Photobucket

Photobucket
Một chiếc Miyapet B 50cc đang được tân trang

Tiến xa hơn, Miyata gởi nhân viên chuyên nghiên cứu và tìm kiếm thị trườngđến Hoa Kỳ, Brazil, Argentina, Chile và Peru trong năm 1958. Mặc dù công việc tìm kiếm thị trường mới trên đà phát triển mạnh, hội đồng quản trị công ty quyết định đóng cửa chi bộ sản xuất xe mô-tô trong cuối năm 1959, nhường chổ cho các công ty sản xuất xe mô-tô khác mà sau cuộc chiến tranh xe máy tàn khốc ở Nhật Bản gần 30 năm chỉ còn 4 'đại gia' của công nghệ cơ khí xe 2 bánh như Honda, Yamaha, Suzuki và Kawasaki sống sót đến ngày nay.

Photobucket

Photobucket

Photobucket
Một chiếc xe đạp đua Miyata ngày nay

Công ty Miyata trở về việc sản xuất xe đạp và dụng cụ thiết bị Ansul, những sản phẩm về phòng cháy và chửa cháy, tuy nhiên chi bộ xe mô-tô vẩn còn lưu dụng để bảo hành các sản phẩm trong đầu thập niên 1960. Xe đạp Miyata được bán ra dưới nhiều thương hiệu như Miyata, Asahi, Koga... nhằm cạnh tranh trực tiếp với xe đạp Bridgestone mà thương hiệu Miyata dành cho những chiếc xe đạp đua và thể thao cao cấp, Koga dành cho những chiếc xe đạp đặc biệt và thương hiệu Asahi là loại xe đạp đại chúng. 

Photobucket

Photobucket

Photobucket
Vài chi tiết về xe đạp đua Miyata

Ngày nay Miyata vẫn tiếp tục sản xuất xe đạp và dụng cụ thiết bị phòng cháy chửa cháy.


Nguồn: Wikipedia (anh và nhật ngử) - Japan's Motorcycle Wars của Jeffrey W. Alexander - Motorbicycling.com - Response - VendoPreparados - Allcarindex.com - Blogs tiếng nhật về xe Miyata.

Như vậy, giá bán của Yamaha NVX không có sự khác biệt so với thông tin rò rỉ trước đó. Phiên bản Yamaha NVX tiêu chuẩn có giá bán là 44.990.000VND (bao gồm VAT), còn bản cao cấp (NVX 155 ABS) có giá bán 50.990.000VND.



Sáng ngày 1/12/2016, Yamaha Việt Nam tổ chức họp báo ngay tại nhà máy của hãng và chính thức công bố giá bán của mẫu xe ga thể thao Yamaha NVX, vốn đã gây xôn xao và được thị trường chờ đón trong hơn 1 tháng qua.


Cụ thể, Yamaha NVX phiên bản tiêu chuẩn sẽ có giá niêm yết là 44.990.000VNĐ, trong khi đó phiên bản Yamaha NVX cao cấp với các trang bị hiện đại hơn bao gồm phanh ABS, hệ thống tự động ngắt và khởi động lại động cơ khi dừng, khóa thông minh với núm xoay đa năng, mở khóa không cần chìa, có giá 50.990.000VNĐ.




Yamaha Việt Nam chính thức công bố giá bán NVX từ 45 triệu đồng ảnh 1






Cả hai phiên bản Yamaha NVX đều sử dụng động cơ Blue Core dung tích 155 phân khối, loại 4 van, trục cam đơn, làm mát bằng dung dịch, và đặc biệt là được trang bị công nghệ điều khiển đóng mở van biến thiên 2 cấp (VVA). Blue Core 155 có công suất cực đại 15 mã lực tại tốc độ quay 8.000 vòng/phút, và mô men xoắn cực đại 13,8Nm tại tốc độ quay 6.250 vòng/phút. (Xem thêm: Khám phá động cơ Blue Core 155 trên xe ga thể thao Yamaha NVX).

Ngoài việc sử dụng dòng động cơ có dung tích lên tới 155cc, Yamaha còn trang bị cho NVX nhiều công nghệ mới như đèn pha LED, đèn hậu LED, màn hình LCD rộng 5,8 inch (có tính năng hiển thị tốc độ quay của động cơ, điện áp ắc quy, mức tiêu hao nhiên liệu…) thay cho đồng hồ cơ, lốp sau bản rộng với kích thước 140/70-14. Đặc biệt, các trang bị cao cấp trên bản NVX cao cấp như hệ thống tự động ngắt và khởi động lại động cơ khi dừng, khóa thông minh, phanh ABS, đều là những trang bị chỉ xuất hiện trên những mẫu xe ga cao cấp và đắt tiền.




Yamaha Việt Nam chính thức công bố giá bán NVX từ 45 triệu đồng ảnh 2






Tuy nhiên, điểm ấn tượng nhất của Yamaha NVX là một thiết vô cùng đẹp mắt theo mô típ hình chữ “X” khi nhìn ngang và nhìn từ trên cao xuống, với các đường nét thiết kế sắc xảo, thể thao, trẻ trung nhưng chững chạc.

Yamaha NVX có kích thước ba chiều dài x rộng x cao là 1.990 x 700 x 1.125, cùng chiều dài cơ sở 1.350mm, tức lớn khá nhiều so với mẫu xe ga Yamaha Nouvo trước đây, đồng thời tạo cảm giác bề thế, sang trọng. Nhưng Yamaha NVX thực tế tương đối nhẹ với khối lượng ướt (xăng đầy bình) là 116kg cho bản tiêu chuẩn và 118kg cho bản cao cấp (bản NVX ABS).




Yamaha Việt Nam chính thức công bố giá bán NVX từ 45 triệu đồng ảnh 3






Nhờ phần đuôi xe và mặt yên được thiết kế rộng, cộng với việc dời bình xăng từ vị trí dưới yên xuống phần lườn xe giữa hai chân người điều khiển, nên Yamaha cũng tạo nên chiếc cốp với dung tích rất lớn, lên đến 25 lít, đủ để chứa 2 chiếc mũ bảo hiểm cùng nhiều vật dụng khác.



Yamaha Việt Nam chính thức công bố giá bán NVX từ 45 triệu đồng ảnh 4






Yamaha NVX sẽ bắt đầu được bán tại các đại lý của Yamaha trên toàn quốc từ ngày hôm nay 1/12/2016, với các màu trắng hoặc đen bóng cho bản tiêu chuẩn; màu đen nhám, trắng hoặc xanh cho bản cao cấp (bản ABS). Khách hàng tiềm năng của Yamaha NVX được Yamaha hướng đến là nam giới, tuổi từ 22 đến 35, với mức thu nhập trung bình mỗi tháng vào khoảng 12-20 triệu đồng.



Yamaha Việt Nam chính thức công bố giá bán NVX từ 45 triệu đồng ảnh 5








Nghinh Phong

(Theo Nghe nhìn Việt Nam)


The post Yamaha Việt Nam chính thức công bố giá bán NVX từ 45 triệu đồng appeared first on thegioimoto - 2banh - moto pkl - xe may.

Đánh giá ưu nhược điểm xe tay ga Yamaha NVX 2017 155cc: Một điểm đáng chú ý là Yamaha NVX cũng được trang bị công nghệ chống bó cứng phanh ABS, giúp tăng độ an toàn. Xe chưa được công bố giá bán, nhưng theo nhận định của một số đại lý trong nước, rất có thể mẫu xe này sẽ được định giá trong khoảng từ 47 đến 50 triệu đồng. Xe sẽ được lắp ráp tại Việt Nam, bán ra thị trường trong tháng 12.


Hôm nay (01/12/2016) Yamaha sẽ công bố giá xe NVX 2017:


NVX sử dụng bộ khung kiểu underbone, cặp vành đúc 14 inch đa chấu kết hợp với lốp không săm, lốp trước kích thước 110/80 và lốp sau 140/70. So với Honda SH 2017 dùng vành đúc 16 inch với lốp trước 110/80 và 120/80. Dung tích bình xăng NVX khá nhỏ chỉ 4,6 lít so với động cơ 155 phân khối, trong khi của Honda SH là 7,5 lít.Với thiết kế cùng công nghệ mới, Yamaha kỳ vọng NVX sẽ mang làn gió mới cho phân khúc xe ga thể thao cao cấp. Mục tiêu của hãng là bán ra 300.000 xe NVX mỗi năm. Theo kế hoạch, Yamaha sẽ công bố giá bán của NVX vào ngày 1/12.


Hiện tại, hãng xe Nhật Bản vẫn chưa tiết lộ bất kỳ thông tin nào về giá của sản phẩm, và sẽ lên kệ trong tháng 12 tới. Tuy nhiên, Trong buổi sáng 29/11/2016 NVX 155 2017 đã có nhưng tin tức rò rỉ đầu tiên về giá xe NVX 2017 cho 2 phiên bản:Tiêu Chuẩn với giá 44.990.000 đồng và Cao Cấp là 50.990.000 đồng. (nguồn: Tuấn Trung Tá) Trong đó, phiên bản Tiêu chuẩn sẽ không được trang bị công nghệ Smart Key và phanh ABS và ngược lại phiên bản Cao Cấp sẽ được trang Full “đồ chơi”. Hy vọng, dòng Yamaha NVX 155 2017 sẽ tạo nên một “cơn sốt” cho thị trường xe tay ga trong thời gian tới. Chúng ta sẽ biết NVX 155 2017 có giá công bố chính thức như thế nào thì đón xem vào đầu tháng 12 tới nhé.


Đánh giá ưu nhược điểm xe tay ga Yamaha NVX 2017 155cc


Yamaha đã chính thức trình làng mẫu xe tay ga 155 phân khối dành cho nam NVX (tên gọi khác là Aerox), thay thế cho mẫu Nouvo vừa bị khai tử. Yamaha NVX 2017 sẽ được bán ra đầu tiên tại Việt Nam và Thái Lan vào tháng 12 năm nay, trong khi Indonesia, Malaysia và một số thị trường Đông Nam Á khác phải đợi đến đầu 2017 mới có xe. Tại Việt Nam và Malaysia, xe có tên là NVX, trong khi ở Thái Lan và Indonesia, model này được gọi là Aerox.


Yamaha NVX 2017 đã có giá bán chính thức kèm thông số kỹ thuật


Yamaha NVX 2017/Aerox là mẫu xe tay ga hoàn toàn mới của hãng xe Nhật Bản, hướng đến khách hàng nam giới, ra đời với sứ mệnh thay thế dòng xe Nouvo vừa bị khai tử. Yamaha gọi NVX là mẫu xe tay ga thể thao tốt nhất ASEAN, đặt mục tiêu mỗi năm bán ra 300.000 chiếc. Hãng nhấn mạnh vào ba yếu tố ở mẫu xe này: thiết kế thể thao, phong cách, khả năng vận hành mạnh mẽ và tính tiện dụng cao.


Đánh giá ưu nhược điểm xe tay ga Yamaha NVX 2017 155cc


Thiết kế của mẫu xe Yamaha NVX 2017 này đậm chất nam tính, với nhiều đường gân tạo sự khỏe khoắn cũng như làm tăng tính khí động học. Yên xe thể thao với phần dành cho người ngồi sau nhô cao. Xe sử dụng lốp trước 110 mm, lốp sau cỡ lớn 140 mm. Cả hệ thống đèn trước, sau đều sử dụng công nghệ LED, đặc biệt phần mặt nạ trước tỏ rõ vẻ hầm hố. Đồng hồ LCD điện tử, hệ thống khóa thông minh không dùng chìa Stop Start System cũng được trang bị cho mẫu xe này. Nắp bình xăng được đặt ở phía trước, trong khi cốp xe khá rộng. Yamaha không giới thiệu cụ thể các màu sơn dự kiến trên NVX, nhưng cho biết màu sắc và tem xe sẽ được thiết kế dựa trên hai tiêu chí: cao cấp và trẻ trung. Cân nặng của mẫu xe này chỉ là 116 kg.


Đánh giá ưu nhược điểm xe tay ga Yamaha NVX 2017 155cc


Yamaha NVX 2017 vận hành bằng động cơ 4 thì SOHC, 4 van, làm mát bằng chất lỏng, dung tích 155 phân khối đi kèm hộp số vô cấp CVT. Một loạt nâng cấp, cải tiến đã được Yamaha ứng dụng cho động cơ Blue Core sử dụng trên NVX, giúp tăng 30% sức mạnh so với thế hệ trước. Thiết kế trục xe hình chữ X mang đến sự cân bằng và tăng tính khí động học, giúp xe vận hành mạnh mẽ ở tốc độ cao.


Một điểm đáng chú ý là Yamaha NVX 2017 cũng được trang bị công nghệ chống bó cứng phanh ABS, giúp tăng độ an toàn. Xe chưa được công bố giá bán, nhưng theo nhận định của một số đại lý trong nước, rất có thể mẫu xe này sẽ được định giá trong khoảng từ 47 đến 50 triệu đồng. Xe sẽ được lắp ráp tại Việt Nam, bán ra thị trường trong tháng 12.


The post Đánh giá “Ưu nhược điểm” và “Giá bán” xe tay ga Yamaha NVX 2017 155cc appeared first on thegioimoto - 2banh - moto pkl - xe may.


Một thành công lớn nhất trong lịch sử công nghiệp cơ khí của Nhật Bản là chiếc xe 2 bánh được sản xuất bởi công ty Honda. Đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ về kỹ nghệ của Nhật Bản sau chiến tranh. Mời các bạn đọc qua câu chuyện về chiếc xe gắn máy nhỏ bé Honda SuperCub đã được sử dụng tại Việt Nam trong thập niên 60.
Xe Honda ở Việt Nam
Ngược dòng lịch sử, chiếc Honda SuperCub đã có mặt ở miền Nam Việt Nam vào năm 1963 khi các nhân viên hoa kỳ trong công tác dân sự vụ (đoàn Peace Corps) đến làm việc giúp đở kỹ thuật công nghiệp và nông nghiệp đã đem đến một số xe Honda SuperCub kiểu C100 với động cơ 49cc OHV (overhead valves) ra lò từ năm 1958 khi ông Soichiro Honda quyết định chinh phục thị trường xe gắn máy tại Hoa Kỳ. Kiểu xe nầy có đặc tính với tiếng máy khua xành xạch do trục cam nằm trong lòng máy, vận hành các van đóng mở của buồng đốt bằng 2 thanh đũa thép truyền động và ống pô xả khói hình dẹp.

Photobucket
Chiếc Cub C100 đầu tiên chinh phục thị trường Hoa Kỳ vào năm 1958.
Photobucket
Bộ máy OHV trên một chiếc C110 bán tại Hoa Kỳ.
Photobucket
Một vài loại động cơ OHV trang bị cho các loại xe Honda Cub với bộ ly hợp (embrayage) tay hoặc tự động cùng bộ đề nổ máy bằng điện, một chiếc Honda Gorilla trong hình là kiểu đầu tiên bán tại Nhật Bản.

Trên thị trường xe 2 bánh có động cơ tại miền Nam Việt Nam vào đầu thập niên 60, đa số là các loại xe nhập từ các nước ở châu Âu: Mobylette-Motobécane, Vélo-Solex, Vespa, Lambretta, Puch, Sachs (máy Sachs lắp ráp trên các loại xe Phénix, Goebels...), v.v. Yếu điểm của các loại xe nhập từ châu Âu là loại động cơ 2 thì mà các trạm bán xăng không bán loại xăng pha nhớt dùng cho loại động cơ nầy ngoại trừ trong những thành phố lớn, ở miền quê phải mua xăng và nhớt về pha chế lấy. Ngoài ra, thiết kế về cơ khí đơn sơ và nhất là không chú trọng về điểm cân bằng trọng lượng xe, chẳng hạn như chiếc Vélo-Solex với bộ máy nằm trên bánh trước nên khó điều khiển tay lái - việc thay nhớt máy của một chiếc xe máy Sachs đòi hỏi nhiều thao tác...

Photobucket
Một chiếc Honda C-50 trên cầu xa lộ Sài Gòn - Biên Hoà. Được nhập cảng vào Việt Nam từ năm 1965.
Photobucket
Hình dáng những người dân Sài Gòn trên những chiếc Honda ở thập niên 60.
Photobucket
Một chiếc Honda C-50 trên đường đến Thủ Đức.

Nhu cầu sử dụng phương tiện lưu thông ngày càng cao và giá cả một chiếc xe gắn máy không phải ai cũng có thể mua được ngay, chính phủ VNCH trong chương trình cải thiện đời sống quân nhân và viên chức đã cho nhập cảng các loại xe gắn máy sản xuất ở Nhật Bản do đường vận chuyễn gần với Việt Nam và giá cả rẽ hơn so với các loại xe âu châu. Trong đợt xe gắn máy đầu tiên được nhập cảng vào VN vào năm 1965 là loại xe Honda C-50 sơn mầu đỏ, thường được gọi là xe Honda quân đội (và còn được gọi là Honda Dame) vì những người được ưu tiên mua xe là các quân nhân phục vụ ở Sài Gòn, đợt đầu có khoảng 5.000 chiếc đã bán sạch trong vài tuần - số máy đóng trên xe mang ký tự YA, tiếp đến là loại C-50 mầu xanh với ký tự YB...

Photobucket
Một chiếc Honda C-50 trên đường phố Sài Gòn, đằng sau là một chàng lính hải quân VNCH trên một chiếc Vélo-Solex.
Photobucket
Hình dáng thướt tha của một nữ sinh trên chiếc Honda C-50 ở Sài Gòn, một hình hiếm thấy so với ngày nay, người đi xe được trang bị khẩu trang và găng tay trùm kín…

Liền sau đó, các hảng nhập cảng bắt đầu được phép nhập vào loại Honda C-50, Suzuki 50 kiểu M-12, M-15 và M-30; Yamaha 50 kiểu YJ2, U5, YF5; Bridgestone BS-50, Kawasaki... và bán ra cho dân chúng. Tiếp theo năm 1966, cục Quân Tiếp Vụ của quân đội bán ra loại xe Honda thể thao S-50 nhưng không thành công cho lắm cho đến khi đợt xe Honda SS-50 nhập vào, trông tương tự như những chiếc S-90 mà quân nhân hoa kỳ sử dụng.

Photobucket
Một động cơ Honda OHC được đưa vào sản xuất từ năm 1965 đã làm nổi bật ưu điểm của loại động cơ 4 thì - sự nghiệp của loại động cơ nầy kéo dài đến ngày nay, gần 45 năm, được xem như là một kỷ lục.

Kiểu xe Honda C-50 nhập vào VN hoàn toàn mới so với các kiểu xe Cub nhập vào Hoa Kỳ. Với động cơ 49cc OHC (overhead camshaft) tiếng máy nổ êm dịu hơn loại động cơ OHV, do việc cải tiến đưa trục cam lên trên đầu máy và vận hành bởi một dây sên (chaîne) từ trục máy, Honda C-50 thừa kế chiếc C100 SuperCub mà bộ ly hợp tự động (embrayage) lớn hơn với hộp số 3 số và kích động máy bằng cần đạp chân hoặc bộ đề (démarreur) bằng điện và các đèn báo hiệu lớn hơn dễ thấy từ xa.

Photobucket
Một chiếc Honda Super Cub sản xuất nhân dịp chiếc thứ 50 triệu xuất xưởng, hình dáng kiểu xe vẫn duy trì như dòng xe C-50 của thập niên 60.

Vấn đề chiếc Honda C-50 lúc ban đầu cũng không tránh khỏi đàm tiếu của những người quen sử dụng xe 2 bánh châu âu, việc vận hành hộp số tự động của chiếc C-50 đã gây ra không ít tai nạn nhỏ như xe chồm lên hất ngã người lái khi khởi hành, bu-gi xe kiểu nhỏ khó kiếm... và có người đồn rằng những hảng bán xe 2 bánh châu âu đã thuê người dắt xe Honda đi bộ trên đường than phiền xe hỏng máy... Bù lại, người ta nhận ra ngay chiếc C-50 ít hao xăng, với động cơ 4 thì không cần phải pha nhớt và chịu nóng hơn các động cơ 2 thì, khi mua xe có thêm cuốn cẩm nang xử dụng và gói nhựa đựng một vài khoá mở bu-gi và chỉnh ốc vít cùng một hộp sơn nhỏ dùng để sửa vá lớp sơn.

Photobucket
Hình một chiếc Honda SS-50 đời năm 1967 rao bán tại Pháp được tân trang, cũng với guidon thẳng như kiểu đã bán tại Việt Nam, ngoại trừ vè chắn bùn sau bằng thép uốn mượn từ kiểu CD-50 và sơn cùng mầu với thân xe.

Khi chiếc Honda SS-50 nhập vào VN thì những đồn đải xấu xa về các loại xe 2 bánh nhật đã đi xa, các loại xe gắn máy châu âu lu mờ trước những dáng vẻ thanh lịch cùng mầu sơn bóng bẩy của những chiếc xe nhật, dần dần vắng bóng về miền quê để trở thành xe lôi hoặc xe 3 bánh. Loại xe Honda nhập nội đến năm 1975 khi chế độ VNCH sụp đổ thì đã có trên 10 kiểu xe khác nhau đáp ứng nhu cầu vận chuyễn và ý thích của khách hàng. Về đặc tính kỹ thuật, mời bạn tham khảo tại đây 


Photobucket
Chiếc Honda ANF Innova 125cc đang khuyến mãi ở châu Âu (Made in Thailand), là dòng xe hiện nay phát triển từ SuperCub (tương tự như Wave 110S và Wave 110RS ở Việt Nam với động cơ 109cc). Sự khác biệt so với SuperCub ban đầu là dùng bộ đánh lửa điện tử CDI và không còn dùng bộ chế hoà khí (carburateur) nữa mà được thay thế bằng hệ thống kim phun xăng điện tử PGM-FI đặc chế bởi Honda nhằm tiết kiệm nhiên liệu và giảm ô nhiểm môi trường.

Ngày nay kiểu xe SuperCub đã có trên 60 triệu chiếc xuất xưởng từ 15 nhà máy trên thế giới và có hơn 50 dáng kiểu khác nhau, không kể đến những chiếc xe cải tiến từ SuperCub với những động cơ 4 thì OHC 50cc, 65cc, 70cc, 90cc, 100cc và gần đây với chiếc Honda Innova 125cc. Ngoại trừ một vài công ty được phép sản xuất từ Honda như SYM, Kymco, Daelim... thì đa số loại SuperCub được nhái lại bởi các công ty sản xuất xe 2 bánh ở Trung Quốc mà không cần giấy phép nhượng quyền vì ở quốc gia nầy không có luật bảo vệ quyền công nghệ cũng như sở hửu trí tuệ.

Sơ lược về công ty Honda American Motor

Photobucket
Soichiro Honda (1906-1991) sáng lập viên công ty Honda, với đầu óc táo bạo ông đã thành công trong việc khuếch trương kỹ nghệ cơ khí của Nhật Bản, mặc dù bị điểm xấu ở trường học lúc còn thiếu thời, ông chủ trương không đi theo nguyên tắc kinh doanh truyền thống của Nhật Bản mà làm một cuộc phiêu lưu táo bạo, cuộc cách mạng về kinh tế đã đưa ông thành một trong những chuyên gia công nghiệp lớn nhất trên thế giới.

Phần nầy chỉ nói qua việc Honda chinh phục thị trường Hoa Kỳ trong thập niên 50 vì nói đến lịch sử hình thành hảng Honda, các sản phẩm và đời tư của ông Soichiro Honda quá dài nên sẽ viết riêng thành chủ đề khác.

Bổ túc: Một bài viết gần đây nói về lịch sử hình thành công ty Honda - xem bài Xe Honda N360 

Photobucket
Photobucket
Hình ảnh chiếc xe 2 bánh gắn máy Honda Cub F 1952 được trưng bầy tại bảo tàng Honda ở Nhật Bản. Kiểu xe nầy đáp ứng với nhu cầu vận chuyễn của các công nhân trong nước Nhật sau chiến tranh, khoảng gần 17.000 chiếc Cub F bán ra trong năm 1952 và xem như là một thành công đầu tiên của Honda.

Năm 1958, Soichiro Honda là một kỹ-sư cơ-khí chuyên về sãn-xuất xe 2 bánh tại Nhật cuối thập niên 40 bắt đầu chinh phục thị trường xe mô-tô vùng bắc châu Mỹ. Ông ta lập ra công ty Honda American Motor Inc. mà cơ-xưởng đầu tiên đặt tại số 4077 West Pico Boulevard, Los Angeles, California.

Photobucket
Trụ sở đầu tiên của Honda American Motor trên đường West Pico, Los Angeles.
Photobucket
Một góc trong trụ sở của Honda American Motor ngày nay được thiết kế giống như cửa hàng của Honda trong thập niên 50.

Lúc bấy giờ trên thị trường xe 2 bánh tại Hoa-Kỳ, ngoại trừ sản phẩm nội địa Harley Davidson, thì chỉ có xe của Anh Quốc: Triumph, BSA, Matchless, AJS, Norton, Velocette, etc. chiếm lãnh toàn bộ các tuyến đường xứ cờ hoa. Honda đưa vào thị trường Hoa Kỳ với một vài kiểu Dream và Benly (125 - 350cc, Benly dịch âm từ tiếng nhật có nghĩa là “tiện nghi” và có âm đọc tựa như các loại xe thể thao Bentley), đặc biệt là chiếc C100, một loại xe gắn máy 49cc với cấu trúc của một xe mô-tô với động cơ 4-thì đặt ở giữa khung sườn xe tạo nên sự cân bằng về trọng lượng và dễ điều khiển hơn các loại xe gắn máy khác của châu âu vào thời đó.

Photobucket
Những người sáng lập công ty Honda American Motor, từ trái qua phải: Soichiro Honda, Jack McCormack chuyên về quản trị và khuyến mãi, Tex Brichard chuyên về điều hành và phát triển thương vụ.

Thêm vào đó, Honda đã táo bạo dùng chất nhựa vào quy trình sản xuất chiếc SuperCub như một cuộc cách mạng, chẳng hạn như vè chắn bùn bánh trước, vè chắn bảo vệ chân, hộp đựng bình điện và phụ tùng... những cơ phận hoàn toàn chế tạo bằng nhựa mà các nhà chế tạo xe mô-tô khác không dùng đến.

Photobucket
Những tấm bửng nhựa của chiếc SuperCub đang chờ lắp ráp tại cơ xưởng Honda ở Hamamatsu, được xem như là một cuộc cách mạng táo bạo về việc sử dụng nguyên liệu trong chu kỳ sản xuất xe 2 bánh.

Từ năm 1958 đến 1962, Honda bán được hằng năm khoảng 15 đến 20.000 chiếc tại Hoa Kỳ. Dựa trên sự nghiên cứu về thị trường tiêu thụ tại đây, loại xe mô-tô không bán được nhiều bởi vì hình ảnh những người lái xe mô-tô là những chàng trai bạt mạng giang hồ, những hình ảnh qua các phim Hollywood; lý do kế tiếp là giá bán mỗi chiếc xe mô-tô thời đó khoảng từ 1.500 đô-la đến 2.500 đô-la không phải ai cũng có thể mua được.
Honda C100 Super Cub 1963
Honda Super Cub 1963
Một chiếc Honda SuperCub C100 đời 1963 bán tại Canada, điểm khác biệt với loại SuperCub ở Hoa Kỳ là được trang bị 2 đèn báo hiệu mầu vàng cam (bấm vào xem hình lớn hơn).

Soichiro Honda và bộ tham mưu tại Hoa-Kỳ do Nakajima điều khiển đã quyết định tung vào thị trường với chiếc SuperCub mới vào cuối năm 1962 (SuperCub hai chử nối liền với nhau để phân biệt với chiếc máy bay loại nhỏ Piper Super Cub và chử CUB là do viết tắt của Cheap Urban Bike = Xe gắn máy rẽ tiền dùng trong nội thành), chiếc SuperCub 49cc được tung ra với phần cải tiến: yên đôi và 2 versions gồm loại xe có cần đạp nổ bằng chân và loại có đề nổ bằng điện bấm nút từ  ghi-đông - loại nầy nhắm vào các phụ nữ thường hay mặc váy bó khó đạp nổ máy bằng chân. Loại Cub C-50 được bán ở Việt Nam từ năm 1965 với động cơ 4-thì mới OHC có trục cam chuyền bằng nhông sên và thường là loại khởi động máy bằng cần đạp, rất ít loại có bộ đề nổ máy bằng điện. Trong vòng 2 năm sau, các loại xe gắn máy nhập cảng từ châu âu biến mất trên thị-truờng Việt Nam.

Photobucket
Jack McCormack, cha đẻ của câu slogan Honda nổi tiếng trong một cuộc đua Dodge-City 100-mile Economy Run vào năm 1961 và đương nhiên ông ta đã thắng cuộc dễ dàng chứng minh chiếc Honda SuperCub rất tiết kiệm, ít ăn xăng.
Photobucket
Một tờ quảng cáo xe SuperCub về tiết kiệm nhiên liệu, người ta có thể dùng xe chạy được 225 dặm với 1 gallon xăng.

Nhờ vào câu quảng cáo nổi tiếng của Jack McCormack: “You meet the nicest people on a Honda” (Bạn gặp những người dễ thương nhất trên những chiếc Honda) và những hình vẽ tất cả những người già trẻ lớn bé trên những chiếc C100 SuperCub do công-ty quảng cáo Grey Advertising đảm nhiệm. Năm 1963, sau khi tung ra chiến dịch “You meet the nicest people on a Honda” vào mùa Giáng Sinh 1962, hảng Honda bán được trên 200.000 chiếc, tăng phần thu nhập đến 500%, một con số kỷ-lục đáng kể vào thời điểm đó, trong khi các đối thủ chỉ bán được lèo tèo chừng 1.000 chiếc xe!

You meet the nicest people on a Honda
Nicest People
Một tấm quảng cáo với slogan “You Meet the Nicest People on a Honda” đăng trên các báo và tạp chí ở Hoa Kỳ trong khoảng năm 1962-1963 (bấm vào xem hình lớn hơn).

Hình ảnh những chàng trai phiêu bạt giang hồ trên những chiếc mô-tô đã được thay thế bằng những người xinh đẹp trên chiếc Honda SuperCub gọn nhẹ dễ thương, với giá thành từ 215 đến 245 đô-la một chiếc, SuperCub đã trở thành quà biếu sinh-nhật hoặc Noël. Jack McCormack đã biến sản phẩm Super Cub thành một chiếc xe máy gọn nhẹ, dễ sử dụng với dáng vẻ thanh tao; và cũng được tiếp tay của các ca sĩ như ban nhạc trẻ The Beach Boys với bài hát  Little Honda, chiếc Honda C110 của Elvis Presley và chiếc C100 của Ann Margret trong cuốn phim Viva Las Vegas... đã đưa hình ảnh những chiếc Honda xinh xắn thấm nhập vào tâm trí những thanh niên thiếu nữ ở Hoa Kỳ. Sự thành công rực rở của SuperCub qua câu slogan nổi tiếng của McCormack đã trở thành một đề tài nghiên cứu trong các trường đại-học về thương mại hiện nay.

Photobucket
Đoạn phim Viva Las Vegas với Elvis Presley và Ann Margret trên những chiếc Honda thâm nhập vào giới trẻ đầy nhựa sống ở Hoa Kỳ trong đầu thập niên 60.

Nhờ vào thu nhập của việc bán xe SuperCub, 2 năm sau, 1965 - Soichiro Honda lao vào cuộc phiêu lưu mới với loại xe ô-tô S600 và S800 dựa trên mẩu mã của chiếc Triumph TR6, Honda ngày nay được xếp vào nhà sãn-xuất xe ô-tô thứ hai của Nhật Bản, đứng sau hảng Toyota. Xe SuperCub sau 50 năm kể từ khi tung ra thị trường đã bán được trên 50 triệu chiếc, đứng đầu bảng trước loại xe có động cơ  Ford T và Volkswagen Bettle.

Photobucket
Tất nhiên việc kinh doanh sản phẩm Honda không chỉ là sách báo, phim ảnh và nhạc. Từ cuối thập niên 50, Soichiro Honda đã cố gắng chinh phục người tiêu thụ biết đến sản phẩm của Honda qua các cuộc đua xe và phải đoạt giải. Tay đua xe Honda Ralph Ryan với chiếc xe đua Honda 50cc RC113 vừa qua mặt một chiếc Suzuki trong cuộc đua vào năm 1963 (rất tiếc là loại xe 50cc bị hủy bỏ, rút ra khỏi các cuộc đua vài năm sau đó).

Trong suốt thời gian kể từ khi công ty Honda ra đời, một số sản phẩm đã làm mọi người tiêu thụ trên thế giới ghi nhận những thành quả nổi bật của Honda: xe mô-tô 4 xy lanh hàng dọc CB750 Four của cuối thập niên 60, xe mô-tô GL1800 vào năm 2001 thay thế dòng Gold Wing cũ, xe ô-tô thể thao rẽ tiền S600 và S800 của thập niên 60 & 70, các dòng xe ô-tô Civic. Ngoài ra còn có những sản phẩm như máy cày tay, máy cắt cỏ, động cơ các tầu thuyển du lịch loại nhỏ... và gần đây Honda đã phiêu lưu vào lảnh vực không gian với chiếc máy bay phản lực Honda Jet.

Photobucket
2 kiểu xe Honda được bán ra ở Nhật Bản nhân kỷ niệm 50 năm thành công của loại xe Cub: Super Cub và Little Cub.

Tuy nhiên một trong những thành công lớn nhất của Honda vẫn là chiếc xe gắn máy Honda Cub mà năm vừa qua đã làm tổ chức kỷ niệm 50 năm từ ngày xuất quân chinh phục thị trường Hoa Kỳ và cũng vừa đánh dấu vượt lên đến 60 triệu chiếc Cub bán ra trên thế giới. Bộ tham mưu Honda hy vọng chỉ trong vòng vài năm tới, con số 100 triệu chiếc Super Cub xuất xưởng sẽ đến trong tầm tay của họ.

Vài hình ảnh về cuộc sống hàng ngày với xe Cub tại Nhật và Việt Nam
Photobucket
Một chiếc Cub đời đầu tiên vẫn còn sử dụng tại Nhật Bản.
Photobucket
Một chiếc Cub 3 bánh tự chế tại Nhật Bản.
Photobucket
Một công nhân đến làm việc bằng xe SuperCub.
Photobucket
Một chiếc xe chế tạo từ chiếc SuperCub cho các nhân viên Bưu Điện phát thư tại Nhật Bản.

Tại Việt Nam

Photobucket
Photobucket
Photobucket
Photobucket
Photobucket
Photobucket
Photobucket
Photobucket
Về khả năng thích ứng tài tình của người việt trên những chiếc xe 2 bánh thì xin miễn bàn, mời các bạn xem hình.