Đây là câu chuyện về những chiếc xe máy Nhật đã đi vào huyền thoại sau cuộc chiến khốc liệt về công nghệ xe máy kéo dài gần 3 thập niên tại Nhật Bản sau khi Đệ Nhị Thế Chiến 1939-1945 chấm dứt, hai công ty trong số hơn 200 nhà sản xuất xe máy đã biến mất trên thị trường: Yamaguchi và Hodaka.
Sơ lược xe máy Yamaguchi

Nhật Bản sau cuộc chiến tranh khủng hoảng tàn phá, có rất nhiều công ty tranh giành để tồn tại. Trong tháng ba năm 1946, các chi bộ ô tô của Công ty Sản xuất ô tô động cơ diesel đã được chia thành nhóm các xe tải Hino và công ty sản xuất ô tô Isuzu. Chi bộ hàng không đã trở thành Hitachi Aviation. Phát triển công nghệ hàng không bị nghiêm cấm bởi lực lượng Đồng Minh khi ấy chiếm đóng Nhật Bản, công nghệ hàng không được coi là một ngành công nghiệp chiến tranh. Vì vậy, Hitachi Aviation cũng như các công ty máy bay khác của Nhật đã cố gắng tồn tại trong những ngành công nghiệp không liên quan đến chiến tranh.

Photobucket
Một logo Yamaguchi trên bình xăng xe AP10

Photobucket
Những cổ máy Villers mà Fuji Motor dựa vào để chế tạo động cơ

Hitachi sau đó thay đổi tên của nó để trở thành Công ty Tokyo Gas and Electric Manufacturing Company chuyên sản xuất điện và hơi đốt, trong năm 1952, công ty bắt đầu sản xuất động cơ 60cc 2-thì nhỏ dùng cho xe máy. Sáp nhập với Fuji Automobile, và cùng nhau, họ sản xuất xe máy của mình dưới thương hiệu Fuji Motor và Gasuden FMC. Họ cũng cung cấp các công cụ cho các nhà sản xuất xe gắn máy khác, chẳng hạn như Miyata, Zebra, Yamaguchi, Hikari, và Lucky. 

Photobucket
Một xe đạp Yamaguchi được gắn động cơ Fuji Gasuden trong đầu thập niên 1950

Photobucket
Một xe Yamaguchi ZPS năm 1953 với cổ máy Fuji Motor 

Yamaguchi bắt đầu sản xuất xe đạp vào năm 1914, sau đó công ty Yamaguchi thoạt tiên kết hợp với Fuji Motor để sản xuất dòng xe Gasuden FMC (Fuji Motor Corporation)vào giửa thập niên 1950 bởi vì họ đã có kinh nghiệm trong việc chế tạo khung xe. Người sáng lập công ty Yamaguchi là ông Shigehiko Yamaguchi trong đầu thập niên 1950 đã đi thăm viếng các nhà máy sản xuất xe mô-tô ở Hoa Kỳ và Châu Âu để nghiên cứu thị trường, cung cách sản xuất và điều hành thương mại.

Photobucket
Một trang quảng cáo xe Yamaguchi PO50

Photobucket
Một trang quảng cáo xe Yamaguchi 330 125cc vào giửa thập niên 1950

Photobucket
Một xe Yamaguchi VC 125cc Deluxe

Photobucket
Một kiểu xe mô-tô thực sự đầu tiên của Yamaguchi 90cc

Photobucket
Một xe Yamaguchi 80cc động cơ Hodaka

Trong đầu thập niên 1950, ngoài việc kết hợp với Fuji Motor để sản xuất xe Gasuden FMC và sản xuất xe mô-tô cở nhỏ 50cc, 80cc, 90cc và 200cc dưới thương hiệu Yamaguchi với những động cơ của công ty Hodaka cung cấp, Yamaguchi còn sản xuất các khung xe cho các nhà lắp ráp xe máy khác với thương hiệu riêng của họ bán tại Nhật Bản.

Photobucket
Xe Yamaguchi SPB50, kiểu đầu tiên nhập cảng vào Hoa Kỳ

Photobucket
Một xe Yamaguchi SPB50 ngày nay trong một bảo tàng xe máy ở Nhật Bản

Photobucket
Quảng cáo xe Yamaguchi trong một tạp chí ở Hoa Kỳ

Năm 1963, công ty Yamaguchi phá sản, khánh kiệt do các ngân khoản vay từ ngân hàng buộc phải đóng cửa kéo theo hàng loạt các công ty khác chuyên lắp ráp xe máy, không còn nhà cung cấp khung xe nên mất khách cũng lần lượt buộc họ phải đóng cửa.

Từ xe máy Yamaguchi đến Hodaka

Một trong những công ty thoát khỏi cuộc phá sản của công ty Yamaguchi là Hodaka, cũng là một công ty chuyên lắp ráp xe máy tại Nhật Bản trong đầu thập niên 1950, Hodaka là một trong những công ty chuyên sản xuất động cơ 2 thì có liên hệ mật thiết với Yamaguchi vì thoạt tiên Hodaka là khách hàng mua khung xe sản xuất bởi Yamaguchi và ngược lại Yamaguchi mua động cơ của Hodaka sản xuất.

Photobucket
Xe Yamaguchi được khuyến mãi tại Hoa Kỳ qua công ty Pabatco (Pacific Basin Trading Co.)

Photobucket
Một xe Yamaguchi cải tiến với động cơ Hodaka 80cc với hộp số gồm 4 số

Nhờ sự tháo vát của các lãnh đạo công ty, Hodaka đã xuất cảng sản phẩm của mình qua Đài Loan, Hibino Masanori, lãnh đạo công ty Hodaka kể lại:

"Thoạt đầu, hảng xe đạp Yamaguchi sử dụng động cơ nhái theo kiểu Villiers do hảng Fuji Motor cung cấp để sản xuất xe máy Gasuden nhưng sau đó thì họ sử dụng các cổ máy 50cc và 90cc cùng bộ truyền động của chúng tôi rồi thì Fuji Motor cũng dựa trên các kiểu xe Yamaguchi nầy để nhái lại kiểu xe. Chúng tôi sau đó cung cấp các cổ máy 50cc, 80cc, 90cc và 200cc cho Yamaguchi và trong thời cao điểm, chúng tôi cung cấp cho Yamaguchi 4.000 cổ máy 50cc mỗi tháng. Kể từ năm 1954 những công ty lắp ráp xe máy bị khánh kiệt lần lượt rơi rụng và có những công ty khách hàng của chúng tôi - Toyo Motors, Mishima Motors, Osaka's Jet, Tokyo's Health và sau cùng là công ty xe đạp Yamaguchi. Hodaka đối diện với cơn khủng hoảng ngay tại văn phòng và nhà máy ở Nagoya và cũng ngay cả nhà máy mới xây dựng ở Kasadera nhằm mục đích sản xuất dây chuyền cổ máy 50cc cho hảng Yamaguchi. Củng như nhà máy lớn chuyên sản xuất động cơ nông nghiệp của Toyota và Mitsubishi vừa chuyển sang sản xuất động cơ xe máy cũng bị khó khăn, ảnh hưởng lây khi hảng Yamaguchi đóng cửa. Chúng tôi vừa mới triển khai thêm phân xưởng vì phải cung cấp từ 60% đến 70% tổng số công việc cho hảng Yamaguchi. Chúng tôi vừa tăng thêm lực lượng lao động đến 200 người nhưng với sự sụp đổ của hảng Yamaguchi, chúng tôi đành cắt giảm còn phân nửa mặc dù thế, chúng tôi còn có thể củng cố được. Một số công nhân độc lập về nghỉ hưu và số công nhân còn lại là giới trẻ. Củng may cho công ty Hodaka, khi hảng Yamaguchi gặp khó khăn về ngân khoản đưa đến phá sản thì chúng tôi vừa giao thương với Đài Loan. Chúng tôi thiết lập các chi nhánh và bắt đầu bán động cơ cùng hộp số cho các nhà lắp ráp xe máy tại đây. Cảm ơn trời đã giúp chúng tôi thanh lý những cổ máy tồn kho dành cho Yamaguchi (chẳng hạn như số lượng động cơ đã sản xuất dành bán riêng cho Yamaguchi), và chúng tôi tiếp tục sản xuất những động cơ mới... Bất kể sự khủng hoảng gây ra từ hảng Yamaguchi đóng cửa, chúng tôi vẫn phục hồi việc kinh doanh qua việc giao thương với Đài Loan. Chúng tôi tiếp tục bán động cơ cho Đài Loan được 4 năm nhưng do luật lệ mới khắt khe hơn trong việc nhập cảng ở Đài Loan nên chúng tôi bắt đầu giao dịch thương mại với Hoa Kỳ, chúng tôi bắt tay vào việc thiết kế sản phẩm phù hợp với thị trường mới và từ từ cắt giảm việc xuất cảng động cơ đến Đài Loan."

Pabatco kinh doanh xe máy Yamaguchi và Hodaka

Một sự việc quan trọng trong lịch sử xe máy Yamaguchi và Hodaka là công ty Pabatco - Pacific Basin Trading Company - là một công ty con của tập đoàn Farm Chemical of Oregon tại Hoa Kỳ. Trụ sở công ty Pabatco đặt tại thị xã Athena, phía đông bắc tiểu bang Oregon, nằm sát thành phố Pendleton về phương bắc. Pabatco đang tìm kiếm đối tác nước ngoài để trao đổi thương vụ.

Đồng thời với công ty Honda vừa đặt chân đến Hoa Kỳ kinh doanh, Yamaguchi cũng nối bước tìm kiếm thị trường bên ngoài Nhật Bản đã gặp công ty Pabatco tiếp xúc mở thị trường kinh doanh. Vào năm 1961, Pabatco bắt đầu nhập các kiểu xe Yamaguchi 49cc và 80cc và đã chứng tỏ đã đem lợi nhuận đến cho công ty nằm ở bang Oregon.

Không may cho Yamaguchi trong cuộc chiến tranh khốc liệt về xe máy hơn 20 năm qua tại Nhật Bản đã đến cao điểm, giá mua cơ phận rời cùng giá thành sản phẩm đã không theo kịp các đại gia xe máy khác trường vốn và kỹ thuật cao tại Nhật, Yamaguchi tuyên bố phá sản và đóng cửa vào năm 1963. Kiểu xe Yamaguchi cuối cùng bán tại Hoa Kỳ là chiếc xe 80cc với động cơ Hodaka 2-thì.

Photobucket
Một logo trên bình xăng của xe máy Hodaka tại Hoa Kỳ

Với món hàng mang đến nhiều lợi nhuận nay biến mất, trong khi những đại lý phân phối và nhu cầu người tiêu dùng còn cao về những chiếc xe máy nhỏ, một số thành viên công ty Pabatco trong đó có Harry "Hank" Koepke và Adolph Schwartz bàn bạc với nhau, họ cùng thiết lập một bản vẽ và thiết kế về một xe máy kiểu chạy trên đường đất đồng ruộng và liên lạc với công ty chế tạo động cơ cho xe Yamaguchi không ai khác hơn là Hodaka.

Photobucket
Một trang quảng cáo xe Hodaka Dirt Squirt trong một tạp chí

Photobucket
Động cơ Hodaka Ace 100 trong khung xe do các kỹ sư Pabatco vẽ kiểu

Khi liên hệ với công ty Hodaka, họ đã thử chế tạo một khung xe mới gắn động cơ Hodaka để chạy thử ở thị xã Athena và rất bằng lòng với mô hình kiểu xe mới nầy, một kiểu xe đua đường băng đồng với bộ khung thép ống hình tam giác và bộ máy Hodaka cải tiến với công suất mạnh hơn kiểu xe Yamaguchi - họ đem bảng vẽ cùng chi tiết đến Nhật Bản. Hank được giám đốc công ty Hodaka tiếp đón, sau khi bàn bạc về kiểu xe mới, Hodaka nhận việc sản xuất những cổ máy 2-thì mới có công suất cao, không những thế, Hodaka còn nhận thêm việc sản xuất khung xe theo thiết kế và bảng vẽ của Pabatco cùng lắp ráp nguyên chiếc trước khi xuất khẩu sang Hoa Kỳ và việc sản xuất xe mới bắt đầu vào năm 1964.

Xe Hodaka tại Hoa Kỳ

Kiểu xe đầu tiên Hodaka-Pabatco là Ace 90 với động cơ 89cc cải tiến từ kiểu Yamaguchi 80cc, là một kiểu xe chạy trên đường tráng nhựa nhưng có khả năng chạy trên đường đất sình lầy, thích hợp với dân cư ở các vùng sâu xa mà những con đường sỏi đá gồ ghề không cho phép các dòng xe mô-tô lớn lưu thông. Với công suất khoảng 8 mã lực, nặng 80 kg, Hodaka Ace 90 với cổ máy 2-thì đơn giản với hộp số gồm 4 số so với hộp số xe Yamaguchi 80cc chỉ có 3 số, dể bảo trì đã là một thành công lớn của công ty Pabatco đối đầu với xe máy 2-thì nhỏ của Harley-Davidson (xe Harley-Davidson 2-thì là loại xe máy nhỏ chạy đường tráng nhựa).

Photobucket
Hodaka Ace 90, kiểu xe đầu tiên của Hodaka được Pabatco kinh doanh ở Hoa Kỳ

Trong những năm đầu, Pabatco bán được khoảng 17.000 xe Hodaka Ace 90 với giá $379 USD đã là một thành công lớn, chỉ một vài chi tiết cải tiến như đèn chiếu hậu lớn hơn và bánh xe sau là loại lốp xe chạy đường đất sình lầy được lắp ráp chính thức trên các đợt xe cuối cùng. Qua năm 1968, Pabatco ra mắt kiểu xe Hodaka Ace 100, với lòng xi-lanh được nông lớn hơn đến 98cc, công suất 9,8 mã lực với vòng máy 7.500 vòng/phút, hộp số mới với 5 số chân và bộ nhún sau được cải tiến lớn hơn. Hodaka Ace 100 cũng là một xe máy chạy đường nhựa và là một kiểu xe mà những xe khác khó có thể cạnh tranh được trên đường đất sình lầy.

Photobucket
Xe Hodaka Ace 100 cải tiến từ xe Ace 90 vào năm 1968

Hodaka cũng sản xuất các cổ máy 2-thì cho các nhà chuyên lắp ráp xe máy khác, tuy nhiên ở Hoa Kỳ xe máy Hodaka vẫn do mạng lưới công ty Pabatco bán ra và đảm nhận bảo trì dòng xe Hodaka. Năm 1969, Hodaka quyết định phát triển dòng xe máy chạy trên đường đất với các kiểu xe thực sự thuộc dòng xe "motocross", với các kiểu xe đua đường băng đồng mà kiểu đầu tiên là Hodaka Super Rat, kiểu xe cải tiến từ Hodaka Ace 100. Từ các kiểu xe nầy, Hodaka đã đoạt nhiều giải thưởng trong các cuộc đua xe băng đồng tổ chức tại Hoa Kỳ - vào thời điểm ấy, khi nói đến việc chạy đua trên đường sình lầy là người ta nghỉ đến ngay dòng xe Hodaka.

Photobucket
Hodaka Super Rat, một kiểu xe motocross cải tiến từ xe Hodaka Ace 100

Năm 1972, ra mắt kiểu xe Hodaka Wombat 125. Qua năm 1973 có thêm kiểu Hodaka Dirt Squirt và năm 1974 lại ra mắt xe Hodaka Combat Wombat và Super Combat, một xe cải tiến từ kiểu Super Rat với động cơ mạnh hơn và dể điều khiển trên đường đất sình lầy. Tổng cộng có tất cả 15 kiểu xe Pabatco thiết kế và Hodaka sản xuất bán tại Hoa Kỳ.

Tuy nhiên, cuối thập niên 1960, các đại gia xe máy Nhật khác đã thấy được sự thành công rực rở của xe máy Hodaka trên các đường làng hẻo lánh thôn quê. Yamaha cho ra mắt kiểu xe motocross đầu tiên vào năm 1968, chiếc Yamaha DT-1 với những chi tiết kỹ thuật cao, năm 1973 đến lượt Honda, chuyên sản xuất xe chạy đường nhựa với những động cơ 4-thì cũng chen chân vào dòng xe motocross với kiểu Honda Elsinore với cổ máy 2-thì nhằm cạnh tranh trực tiếp dòng xe Hodaka.


Photobucket
Yamaha DT-1 trang bị máy 2 thì 250cc ra mắt vào năm 1968 bán sạch ngay đợt đầu tiên nhập cảng vào Hoa Kỳ, nhằm cạnh tranh trực tiếp với xe Hodaka

Không có cách nào khác hơn, Hodaka cũng buộc phải cải tiến các kiểu xe motocross của mình trong cuộc chiến sống còn về xe máy, Hodaka phát triển dòng xe 175cc và 250cc với kiểu xe Hodaka Thunder Dog là kiểu xe motocross rất chỉnh cho các tay đua xe đường đất sình lầy. Nhưng đối đầu với bộ "Tứ Đại Gia" (Honda, Kawasaki, Suzuki và Yamaha), với những kỹ thuật cơ khí cao và phương pháp sản xuất dây chuyền hoàn mỹ cho phép họ bán xe với giá thành hạ; số xe máy Hodaka bán ra từ từ tuột giốc.



Photobucket
Với những kiểu xe Trail động cơ 4 thì chạy đường đất trong thập niên 1960, Honda nhập cuộc với kiểu xe mới Honda 125 MT Elsinore năm 1973 với động cơ 2 thì

Photobucket
Không chỉ là một kiểu motocross 125 MT Elsinore nhằm cạnh tranh với các xe máy khác, Honda trình làng sau đó kiểu Honda 250 CR, một xe đua motocross với động cơ 2 thì

Cơn bảo cuối cùng thổi đến công ty Pabatco, tập đoàn Shell Oil vừa mua lại công ty mẹ của Pabatco là Farm Chemical of Oregon và thanh tra tất cả ngân khoản tài chính, họ không thấy nguồn lợi nhuận gì nhiều từ việc kinh doanh xe máy của Pabatco nên quyết định đóng cửa vào năm 1978. Công ty Hodaka tại Nhật Bản chỉ còn tồn tại qua việc cung cấp động cơ và cơ phận rời cho các nhà lắp ráp xe máy khác thêm được 2 năm cũng đành đóng cửa vì khánh kiệt vào năm 1980. Hodaka bán tất cả các thiết bị cùng các máy móc công cụ sản xuất động cơ cho công ty Daelim ở Nam Hàn.


Photobucket
Ngày nay vẫn còn những lể hội gặp mặt của những người sử dụng xe Hodaka, nhắc nhở đến huyền thoại chiếc xe máy hợp tác Mỹ-Nhật của 2 công ty Hodaka và Pabatco.

Ngày nay dòng xe motocross Hodaka tại Hoa Kỳ chỉ còn lại nhựng người đam mê xe máy bảo trì lấy và tổ chức những cuộc đua xe nhắc nhở đến thời kỳ xe máy Hodaka trên các đường đất gồ ghề sỏi đá và sình lầy ở các vùng sâu xa đã trở thành những kỷ niệm đẹp trong đời sống của họ.


Vài kiểu xe Hodaka

Photobucket
Hodaka  Combat Wombat 125cc

Photobucket
Hodaka Dirt Squirt 100cc

Photobucket
Hodaka 250 ED

Photobucket
Hodaka 250 SL

Photobucket
Hodaka Dirt Squirt 80, kiểu xe cuối cùng của 2 công ty hợp tác: Hodaka và Pabatco

Công ty Rikuo (陆王 - Rikuo Nainenki Kabushiki Kaisha) là một trong những công ty sản xuất xe máy đầu tiên tại Nhật Bản. Trong đầu thập niên 1930, Rikuo sản xuất theo giấy phép nhượng quyền của Harley Davidson, sử dụng dụng cụ sản xuất xe mô-tô của Harley dưới tên Harley Davidson và sau đó dưới tên Rikuo cho đến năm 1958. Harley-Davidson tự mình đã chính thức không công bố một cách công khai sự kết nối với Nhật Bản trong khi người Nhật đã được giúp đỡ trong việc phát triển hàng loạt kỹ thuật sản xuất từ sự ra đời một nhà máy Harley tại Nhật Bản ngay trước Chiến Tranh Thế Giới lần thứ hai. Hội kỹ sư ô-tô của Nhật Bản đánh giá xe mô-tô Rikuo năm 1935 là một mốc lớn trong những 240 mốc của họ về công nghệ ô-tô Nhật Bản (240 Landmarks of Japanese Automotive Technology).
Câu chuyện của xe máy Rikuo bắt đầu khoảng bốn thế kỷ trước đây. Thương nhân châu Âu đã khám phá ra Nhật Bản, khi ấy được chia thành những lãnh địa nhỏ trong một cuộc nội chiến kéo dài. Người chiến thắng, Tokugawa Ieyasu, bị áp lực khi tiếp xúc với thế giới bên ngoài . Ông tin rằng người Châu Âu đã hỗ trợ một trong những phe phái nầy hoặc phe phái khác trong nỗ lực giành quyền kiểm soát đất nước.
Photobucket
Những xe Harley-Davidson đầu tiên được nhập cảng vào Nhật Bản do nhu cầu của Quân Đội Hoàng Gia

Tiếp đến năm 1853 khi tàu chiến Mỹ, dưới sự chỉ huy của Đô đốc Perry, đã có chuyến thăm Nhật Bản không được mời chào và ông ta buộc nước này phải mở cửa thông thương với người nước ngoài. Năm 1867 thì thật sự nhận thấy rõ ràng rằng chính phủ Nhật Bản chỉ có một sự lựa chọn: Hoặc là trở thành một thuộc địa như rất nhiều quốc gia khác ngoài Châu Âu, hoặc phải giao tiếp và tìm hiểu công nghệ Châu Âu càng nhanh càng tốt. Nhật Bản đã chọn cách thứ hai để hiện đại hóa, và đặt nhiều công sức vào việc học theo kiểu cách phương Tây không như trước đây có tư tưởng bế môn toả cảng. Đến đầu những năm 1900, Nhật Bản đã bắt đầu công nghiệp hóa, và đã trở thành một quốc gia hùng mạnh có ảnh hưởng liên quan đến các vấn đề trong vùng Viễn Đông. Giao thông vận tải là chìa khóa để Nhật Bản phát triển, nhưng hầu hết các tuyến đường Nhật chật hẹp, mặt đường không được trải nhựa.
Photobucket
Một xe thùng Harley-Davidson tại Nhật Bản trong đầu thập niên 1930

Khởi đầu ngành công nghiệp tại Nhật Bản

Nhật Bản đã quan tâm đến xe máy như một phương tiện vận chuyển rẻ tiền. Một vài nhà phát minh Nhật Bản đã chế tạo máy mẫu thử nghiệm, nhưng không có ngành công nghiệp xe máy bản địa thực sự và chỉ có một sự lựa chọn là nhập khẩu một cách giới hạn. Vào đúng thời điểm này Alfred Rich Child đặt chân đến xứ mặt trời mọc.
Photobucket
Alfred Rich Child

Photobucket
Những xe Harley-Davidson đầu tiên dân chúng sử dụng được nhập cảng vào Nhật Bản dưới sự điều hành của "Alf" Child

"Alf" Child sinh ra ở Anh Quốc, và sau một loạt các cuộc phiêu lưu đã hạ cánh xuống làm việc với Harley-Davidson. Sau Thế chiến I (1914-1918), Harley gửi Child đến châu Phi để tìm hiểu xem xét cơ hội đầu tư, và sau đó, vào năm 1924, là Nhật Bản. Trong thập niên 1920, có hơn 50% số lượng xe máy sản xuất tại Mỹ được xuất khẩu. Hảng xe Indian đã xuất khẩu loại mô-tô sidecar sang Nhật Bản vào thời điểm này, và Harley đã quan tâm đến việc mở rộng kinh doanh xuất khẩu ở vùng Viễn Đông. Harley với động cơ mạnh mẽ có vòng quay thấp thích ứng với loại xe sidecar trên những con đường gập ghềnh nhỏ hẹp, đầy dấu vết bánh xe trên mặt đất. 
Photobucket
Những kiểu xe Harley-Davidson được nhập cảng vào Nhật Bản trong thập niên 1930 (tài liệu của Harley-Davidson năm 1932)

Photobucket
Một kiểu xe Harley-Davidson EL vào năm 1936

Ở Nhật Bản, Child tham gia thành công vào các cuộc đàm phán với Công ty TNHH Sankyo. Trong phần đàm phán của họ, các bên đồng ý rằng Child, một doanh nhân tài năng và vấn đề được giải quyết nhanh chóng, Child sẽ ở lại Nhật Bản như giám đốc điều hành của một công ty mới được thành lập, trong đó sẽ nhập khẩu xe máy Harley và phụ tùng cho công ty Sankyo. Hoạt động xuất khẩu của Harley lại tăng thêm khi Quân đội và Hải quân Nhật Bản mua xe mô-tô Harley để sử dụng trong mục tiêu quân sự. Một số cơ sở cảnh sát địa phương cũng mua xe Harleys, và trong vài năm tới có hơn 400 đại lý xe Harley-Davidson và cửa hàng dịch vụ đã được thành lập trên khắp các đảo của Nhật Bản.
Photobucket
Một xe đua Harley-Davidson được sử dụng ở Nhật Bản vào thập niên 1930

Nhưng cảnh quan thay đổi vào mùa thu năm 1929 sau cuộc Đại suy thoái kinh tế toàn cầu, khi giá trị của đồng yên Nhật giảm xuống một nửa, tăng gấp đôi giá nhập khẩu từ Hoa Kỳ. Vào thời điểm này Alfred Child đề nghị xe Harley được sản xuất nguyên chiếc tại Nhật Bản .

Con đường khác biệt

Với suy thoái hiện ra lờ mờ và thị trường xuất khẩu trên toàn thế giới bấp bênh, xe Harleys sản xuất tại Nhật Bản dường như là một ý tưởng tốt. Sau cuộc đàm phán mở rộng, Harley và Sankyo đã đồng ý về các điều khoản và thanh toán tiền bản quyền, được sự chấp thuận của hội đồng quản trị của Harley vào cuối năm 1931 hoặc đầu năm 1932. Sankyo sẽ phải trả $3.000 USD (hơn $60.000 USD với giá tiền ngày nay) cho bản thiết kế, và trả tiền bản quyền $5.000 USD cho năm đầu tiên , $8,000 USD cho năm thứ hai và $10.000 USD cho năm thứ ba.
Photobucket 
Kiểu xe Rikuo VL 1200

Photobucket
Kiểu xe Rikuo VLE 1200

Kỹ sư hảng Harley đã đến thiết lập nhà máy cho đối tác Nhật Bản của họ và chỉ vẽ cung cách để sản xuất chiếc xe mô-tô. Với Harley cung cấp các bí quyết và Sankyo cung cấp nguồn tài chính, các nhà máy sản xuất xe mô-tô thực sự đầu tiên ở Nhật Bản được xây dựng tại Shinagawa và đi vào sản xuất xe nguyên chiếc vào đầu năm 1935.
Photobucket
Bộ máy F-engine "Inlet-over-Exhaust" của Harley-Davidson, khí đốt được nạp vào trên đầu máy và thải ra dưới lòng xi-lanh.

Photobucket
Bộ máy Rikuo J Big Twins

Trong cuối năm 1929 Harley-Davidson chuyển đổi từ mô hình động cơ Inlet-over-Exhaust (nạp khí đốt trên đầu ống xả khí thải) kiểu J Big Twins đến 738cc (45ci) và 1.213cc (74ci) kiểu van nằm ngoài buồng máy đôi hình chử V. Những máy đôi hình chử V đầu tiên đã có nhiều vấn đề về bánh răng vận hành, nhưng sau này đã được sắp xếp lại các công cụ cho bộ van phụ nằm ngoài buồng đốt đã được hoàn tất tốt đẹp trong những điều kiện ở Nhật Bản. Nhà máy Shinagawa bắt đầu sản xuất xe với động cơ van phụ dưới tên Rikuo (phiên âm thành tiếng hán: Vương Lộ), "King of the Road - Vua đường trường".
Photobucket
Một xe Rikuo RQ 750

Photobucket

Photobucket
Một xe Rikuo VL 750

Sắp xếp này có lợi thế mà hoàn toàn có thể đóng góp phần đáng kể về khả năng thanh toán của Harley trong cuộc Đại suy thoái, đã kết thúc đột ngột vào năm 1936 khi những dịch vụ của Child được cung cấp với một trong những xe gắn động cơ Knuckleheads đầu tiên với bộ van trên đầu máy. Công ty Sankyo thử nghiệm mẩu xe nầy nhưng không thích nó và từ chối mua giấy phép nhượng quyền để sản xuất kiểu xe Knuckleheads. Sự từ chối này đã dẫn đến sự cố trong giao dịch thân thiện giữa Harley-Davidson và Sankyo.

Khi việc giải quyết vấn đề trở thành cát bụi, Sankyo không còn có một hợp đồng bản quyền nào với Harley nữa. Đáp lại, Child thiết lập một cơ sở nhập khẩu riêng biệt, nhưng sự sắp xếp mới này chỉ kéo dài thêm một vài tháng: Nhật Bản đã trở nên ngày càng phát động mạnh về quân sự, phảng phất một cuộc chiến sẽ bùng nổ sẽ đến và một lần nữa Nhật Bản lại đóng cửa giao thương với các nước bên ngoài.

Năm 1937 ông đại tá Fujii đã điện thoại với Alf Child và cung cấp những điều kiện rộng rãi trong môi trường đen tối, đề nghị mua lại phần kinh doanh của Alf. Alf đã được trúng ý nên bán cổ phần của mình tại Nhật Bản và di chuyển gia đình ông trở lại Hoa Kỳ càng nhanh càng tốt.
Photobucket

Photobucket
Kiểu xe Rikuo RT cuối cùng của Rikuo Motorcycle Co.Ltd.

Kể từ khi Harley không còn đủ khả năng để thuê Child tiếp tục làm việc (trong khi di căn nền kinh tế vẫn là suy thoái), ông quay sang làm việc cho Tổng công ty Bendix, một công ty chuyên nghiệp về các bộ phanh hảm tốc độ dùng trong lãnh vực xe ô-tô và máy bay. Sau đó, ông làm việc với BSA sau một thoả thuận với công ty nầy, trở thành nhà nhập khẩu xe mô-tô BSA Anh Quốc vào thị trường Hoa Kỳ.

"The King" tiếp tục tại Nhật Bản

Trong khi đó, Rikuo tiếp tục sản xuất xe máy, hầu hết số xe đó đã được bán cho các sở cảnh sát địa phương và quân đội Nhật Bản. Khoảng 18.000 xe Rikuo được sản xuất từ giữa năm 1937 đến năm 1942. Dựa trên Harleys của đầu thập niên 1930, các dòng xe Rikuo bao gồm kiểu xe 750cc (45ci) và 1.200cc (74ci) động cơ hình chử V-máy đôi, tất cả với hệ bôi trơn đặc biệt của Harley. Nhiều kiểu mô-tô trong dòng xe Rikuo 1.200cc đã có một bộ truyền động truyền ra bánh xe sidecar và kiểu xe sidecar nầy đã được sử dụng rộng rãi trên chiến trường Thái Bình Dương của quân đội Nhật Bản.
Photobucket

Photobucket
Kiểu xe Rikuo Type 97 Sidecar được Quân Đội Hoàng Gia Nhật Bản sử dụng trong Đệ Nhị Thế Chiến (1939-1945)

Photobucket
Một xe Rikuo Type 97 ngày nay tại Nga

Có một thời gian gián đoạn sau khi kết thúc Thế Chiến Thứ Hai (1939-1945) nhưng Rikuo lại bắt đầu sản xuất xe mô-tô vào năm 1947. Sau cuộc chiến, những xe Rikuo chủ yếu chỉ bán cho các sở cảnh sát Nhật, mặc dù các bác sĩ và các chuyên gia giàu có mà khả năng của họ có thể mua dòng xe nầy. Khoảng từ 1.500 đến 2.000 xe Rikuo đã được sản xuất mỗi năm thông qua cuối thập niên 1940.

Năm 1950, Công ty máy bay Showa mua lại công ty Sankyo. Vào thời điểm đó, Rikuo đã sản xuất xe máy với kiểu xe 1.200cc, công suất 30hp, cùng kiểu xe sidecar. Năm 1952, Rikuo lại sản xuất kiểu xe 747cc RO, một xe mô-tô với công suất 22hp động cơ van phụ nằm ngoài máy với tốc độ tối đa 68mph - 110 km/giờ và nâng cấp kiểu xe thùng 1.200cc hauler. Đây là tất cả dòng xe Rikuo rất giống với tổ tiên Harley động cơ van phụ, tay ga kéo không có lò xo trở lại trên van tiết lưu và vẫn còn sử dụng hệ dầu bôi trơn cổ điển. Kiểu xe đầu tiên Harley có thùng đựng dầu bôi trơn khô là xe Knucklehead - nguồn gốc của sự tan vỡ hiệp đồng Sankyo / Milwaukee mà sau nầy Rikuo nghiên cứu mô hình động cơ với bộ van nằm trên đầu máy như kiểu Knucklehead nhưng không đưa vào quy trình sản xuất.
Photobucket

Photobucket
Cần số tay gồm 1 số lui và 3 số tiến

Photobucket
Chi tiết xe Rikuo Type 97 Sidecar sử dụng bởi Quân Đội Hoàng Gia Nhật Bản được trưng bày tại Bảo Tàng Lyon Air Museum, Santa Ana, California, Hoa Kỳ

Phần còn lại những cơ phận của Rikuo đã không có gì tiến bộ hơn. Phuộc bánh xe trước là dầm nhún dầu và không có bộ nhún giảm chấn bánh sau. Nhưng điều này không có gì quan trọng, kể từ khi Nhật Bản đang cố gắng tìm phương tiện giao thông vận tải rẻ tiền, và xe Rikuo có ưu điểm với động cơ mạnh mẽ và dễ dàng để sửa chữa với những dụng cụ tối thiểu.

Thời điểm

Ghi chú
1912
Lần đầu tiên Quân đội Hoàng Gia Nhật nhập cảng xe Harley-Davidson
1917
Công ty Okura nhập cảng và khuyến mãi xe Harley-Davidson
1918
Kiểu xe Harley sidecar được nhập cảng do nhu cầu của quân đội
1931
Sankyo chính thức ký hợp đồng với Harley Davidson, thành lập công ty TNHH Japan Harley-Davidson Motorcycle và bán xe tại nước Nhật
1933
Japan Harley-Davidson Motorcycle thụ đắc bảng vẽ thiết kế và sản xuất nhượng quyền cùng thiết lập nhà máy sản xuất xe Harley tại Nhật Bản
1935
Thay đổi tên từ Nippon Harley-Davidson Motorcycle sang tên Sankyo Internal Combustion Engine Co. Ltd.
1936
Đổi tên công ty thành Rikuo Nainenki Kabushiki Kaisha, chính thức sản xuất xe Rikuo Type 97 Sidecar cho Quân Đội Hoàng Gia Nhật Bản
1949
Công ty Rikuo khánh kiệt vì năng lực kém và ngưng sản xuất
1950
Hảng máy bay Showa mua lại Rikuo và tiếp tục sản xuất xe dưới tên công ty Rikuo Motorcycle Co. Ltd.
1959
Ngưng sản xuất xe Rikuo
1960
Công ty Rikuo Motorcycle Co. Ltd. tuyên bố khánh kiệt


Những xe Rikuos khác

Trong thời kỳ sau chiến tranh, ngành công nghiệp xe máy non trẻ Nhật thường đi tắt bỏ qua quá trình tìm kiếm và nghiên cứu bằng cách sao chép lại các thiết kế cơ khí các xe mô-tô từ các nước khác. Rikuo không là ngoại lệ. Trong năm 1953, xe Rikuo Model A, là một bản sao của xe BSA xi-lanh đơn 345cc của Anh Quốc xuất hiện trên thị trường. Xe mô-tô nầy nhẹ hơn, rẻ hơn và dể sản xuất đã gần như là công suất khá mạnh (20hp) như máy V-twin của Harley. Năm 1956 Rikuo sao chép một xe xi-lanh đơn từ kiểu BMW, mà thực sự công suất máy kém hơn xe Harley.
Photobucket
Một xe Rikuo sản xuất sau chiến tranh dựa trên kiểu xe BMW Đức Quốc

Năm 1958, động cơ cổ V-máy đôi- sau đó được gắn hệ thống bôi trơn khô với máng chứa dầu, thay đổi bàn đạp sang số chân và ly hợp tay với tên gọi kiểu xe mới Rikuo RT. Nhưng đã quá muộn: Đến thời điểm này Honda và các nhà sản xuất xe máy khác đã sản xuất những động cơ có bộ cam vận hành trên đầu xi-lanh với chất lượng cao, có bộ khởi động máy bằng điện và sở cảnh sát Nhật từng quen sử dụng xe Rikuo đã chuyển sang sử dụng xe các thương hiệu khác. Việc sản xuất xe Rikuo ngừng vào năm 1958, mặc dù còn những chiếc xe xuất xưởng được lắp ráp từ các bộ phận có sẳn còn lại cho đến năm 1960.
Photobucket
Một xe Rikuo Sidecar ngày nay tại Nhật Bản

Xe Rikuo ngày nay

Ở Nhật Bản, những xe Rikuo trở thành vật phẩm quý hiếm và là bộ sưu tập đắt tiền. Xe Rikuo không bao giờ được xuất khẩu sang Hoa Kỳ tuy nhiên có một số ít tay chơi sưu tập xe cổ đã thực hiện theo cách riêng của họ để nhập vào Hoa Kỳ những xe Harley "Made in Japan" từ bên kia bờ Thái Bình Dương.
Photobucket

Photobucket

Photobucket

Photobucket

Photobucket

Photobucket

Photobucket

Photobucket
Chi tiết một xe Rikuo Sidecar trong tình trạng hoàn hảo tại Nhật Bản