Logo BS trên bình xăng của chiếc xe máy xưa cũ Bridgestone Champion.

Kỹ nghệ cơ khí Nhật Bản phục hồi sau khi nước nầy thất trận trong Thế chiến lần thứ 2 (1939-1945), nhu cầu vận chuyển giao thông với những phương tiện thô sơ như xe đạp trên hạ tầng cơ sở bị tàn phá sau cuộc chiến của quốc gia nầy rất cần thiết - cũng nhờ vào kế hoạch Marshall của Hoa Kỳ nhằm giúp đở các quốc gia thắng hoặc bại trận sau đó để phục hồi kinh tế.

Nhật bản đã nhờ vào kế hoạch kinh tế hậu chiến vực dậy các cơ sở chuyên về cơ khí chẳng hạn như Nakajima Aircraft Company chuyên sản xuất máy bay chiến đấu đã trở thành công ty cung cấp cơ phận rời cho tập đoàn Fuji Heavy Industries trong việc sản xuất xe scooter Rabbit - Thời hậu chiến, có khoảng hơn 200 công ty chuyên sản xuất xe 2 bánh gồm các loại xe đạp có gắn động cơ hổ trợ qua đến xe gắn máy và xe mô-tô cùng xe scooter, đến đầu thập niên 60 chỉ còn khoảng hơn 10 công ty tồn tại trong cuộc chiến tranh khốc liệt về xe mô-tô kéo dài gần 3 thập niên tại Nhật Bản - khi tập đoàn Fuji ngưng sản xuất xe scooter vào năm 1968, Nakajima đã trở thành cộng tác viên kỹ thuật cho dòng xe ô-tô Subaru ngày nay.
Sau đây là:

Sơ lược về xe máy Bridgestone - ブリヂストン.

Công ty sản xuất xe đạp Bridgestone được thành lập vào năm 1945 bởi Soichiro Ishibashi (石橋正二郎), tên công ty được lấy từ chử dịch theo nghĩa đen của tên ông ta bằng tiếng Anh - Ishi - đá, Bashi - cầu (cầu đá hay là Stone bridge theo nghiả tiếng nhật). Vào thời điểm đó, ông đã điều hành một công ty kinh doanh chuyên về nhập khẩu và xuất khẩu phụ tùng ô tô. Lúc đó có một nhu cầu đáng kể về phương tiện giao thông cá nhân giá rẻ tại Nhật Bản sau chiến tranh, và Ishibashi đã quyết định bước vào lĩnh vực sản xuất xe hai bánh.


Photobucket

Ông bắt đầu sản xuất xe đạp vào năm 1946, và trong vòng 3 năm đã nhắm vào việc sản xuất các xe đạp có máy hỗ trợ hay gọi là xe đạp gắn máy, loại xe nầy ra đời đáp ứng với nhu cầu trong thời hậu chiến Nhật Bản. Vào năm 1949, công ty được đổi tên thành Công ty Xe Đạp Bridgestone (Bridgestone Cycle Company - 
ブリヂストンサイクル株式会社) và trong năm sau, một thỏa thuận đã được ký kết với Fuji Seimitsu Jogyo (Công ty Cơ khí Chính xác Fuji - Fuji Precision Engineering Company, ngày nay là một công ty con của Nissan Motor Co.) để cung cấp bộ phận động cơ lắp gắn dể dàng phù hợp với xe đạp BS (tên gọi tắt củaBridgeStone). Lúc đầu bộ máy đã được bán riêng rẽ với các xe đạp, nhưng trong năm 1952, chiếc xe gắn máy Bridgestone đầu tiên đã có mặt trên thị trường. Được gọi là BS-21 "Bambi", xe này bao gồm một máy 26cc hai thì nhỏ gắn trên bánh sau của một chiếc xe đạp BS, với ổ đĩa ma sát vào phía bánh sau. Máy sau đó được nâng cấp để trở thành BS-31 (38.5cc) và BS-41 (49cc), tất cả sử dụng tiêu chuẩn xe đạp BS đủ các loại. Những xe gắn máy này bán rất chạy, và tạo thành xe Bridgestone nổi tiếng.

Photobucket

Xe gắn máy biết đến đầu tiên được sản xuất vào năm 1958. Đây là dòng xe BS "Champion", một xe máy hiện đại 
bằng thép lá ép thành khung với một động cơ hai thì 50cc mát máy bằng quạt và hộp số có ba tốc độ. Phiên bản năm 1962 của xe máy này (Champion-III) sau đó được bán ở Hoa Kỳ dưới tên Bridgestone "Super 7", cùng với một phiên bản xe khung sườn thấp StepThru được gọi là "BS-50 Homer".

Photobucket
Phiên bản thứ ba của kiểu xe BS Champion trên tờ quảng cáo ở Nhật Bản - 1962

Photobucket
Một xe BS Champion trong tình trạng hoàn hảo ngày nay ở Nhật Bản.

Photobucket
Một xe BS-50 Homer 'Step Thru'.

Tìm kiếm thị trường tiêu thụ
 
Xuất khẩu sang Hoa Kỳ khởi đầu vào năm 1963, qua công ty con Rockford Motors của Rockford, Illinois. Những chiếc xe máy ban đầu được bán thông qua các doanh nghiệp Sears-Roebuck và Montgomery-Ward chuyên bán hàng qua các catalogues (sách in các mẩu hàng), và thông qua các cửa hàng thực dụng và các cửa hàng bán đồ thể thao trên khắp Hoa Kỳ (theo nguồn khác thì chính doanh nghiệp Aldens Chicago chuyên bán xe Bridgestone). Việc xuất khẩu quy mô nhỏ sang các nước khác tiếp theo sau đó, những chiếc xe gắn máy đến thị trường Anh vào đầu năm 1968.


Photobucket
Quảng cáo xe BS 7 Sporter do công ty Rockford đảm nhiệm ở Hoa Kỳ với 2 kiểu C206 đạp máy bằng chân và C207 có bộ kích động máy bằng điện.

Các kiểu xe Bridgestone dung tích nhỏ được bán ra thị trường ở Đông Nam Á như Đài Loan, Thái Lan, Việt Nam... Tuy nhiên tại miền nam Việt Nam vào thời điểm ấy tràn ngập các dòng xe Honda, Suzuki, Yamaha, Kawasaki, chỉ có duy nhất kiểu xe BS-50 Sport với 2 mầu: đen và đỏ, được nhập vào khoảng năm 1966 trong khi kiểu xe BS-50 Homer (có lẽ do hình dáng khá cổ điển) không có mặt ở Việt Nam vì nhà nhập cảng xe BS thấy khó cạnh tranh với các kiểu xe dành cho phụ nữ như Honda C-50 Super Cub,Suzuki M-30 và Yamaha 50cc U-5 Newport.

Photobucket

Photobucket
Một xe BS-50 Sport ngày nay ở Nhật Bản.

Photobucket
Một xe BS-50 Sport trong tình trạng hoàn hảo tại Bình Dương, Việt Nam.

Các loại xe mô-tô Bridgestone

Wikimedia
Sơ đồ một động cơ 2-thì với điã van hút từ trục máy chính để nạp khí pha xăng vào buồng đốt.

Trong những năm đầu thập niên 60, ngành công nghiệp xe máy Nhật Bản đang trải qua một giai đoạn khó khăn và một số nhà sản xuất xe máy đã buộc phải đóng cửa. Bridgestone lúc ấy có thể tồn tại và trong thực tế được thụ hưởng sự sáng tạo từ các kỹ sư và nhà thiết kế trẻ tham gia (đặc biệt là các cựu nhân viên của các hảng Lilac và Tohatsu), những nhân viên chuyển sang công ty BS khi các công ty của họ bị phá sản. Kết quả của việc này là một loạt các mẫu xe mới của Bridgestone, tất cả các xe được trang bị động cơ đĩa van hút xoay vòng. Điều này bắt đầu với kiểu xe BS-90 vào năm 1964, tiếp theo vào năm 1965 với xe BS-50 và BS-175, và hai năm sau đó với các kiểu BS-350. Ảnh hưởng mẩu xe Lilac có thể được nhìn thấy trong phong cách của các mô hình này. So sánh các xe Bridgestones 90 và 175 với mô hình cuối của xe Lilac y như cặp song sinh và dáng vẻ như cùng dòng giỏi là điều hiển nhiên. Những kỹ sư chuyên nghiệpvề động cơ hai thì từ hảng Tohatsu đã khởi công thiết kế động cơ đầy tính chất nghệ thuật hiện đại mang đến cho xe Bridgestone hiệu suất tốt với độ tin cậy cao. Các động cơ đĩa van hút mới đã được sản xuất trong tám năm liên tiếp mà không có thay đổi lớn và trong thực tế vẫn còn được sản xuất ở công ty cho đến khi đóng cửa.

Photobucket

Photobucket

Photobucket

Photobucket

Photobucket

Photobucket
 Các kiểu xe BS và giá bán tại Nhật Bản vào thập niên 1960.

Trong thời gian này, bộ phận phát triển sản xuất một số kiểu máy duy nhất và các kiểu máy thử nghiệm, trong đó có một máy xi-lanh kép 125cc kèm với phanh đĩa bánh trước (mà sau này được phát triển để trở thành xe BS-175 Dual Twin với bộ
 phanh cổ điển), một xe 250cc chạy băng đồng motocross đã giành được các giải đua trong số 165 cuộc đua Japanese National Motocross Championship do một nhóm tay đua của nhà máy, và một số xe mẫu xi-lanh đơn 50cc và 125cc tham gia các cuộc đua mà không bao giờ đạt đến giai đoạn sản xuất đại trà.

Photobucket
Các kiểu xe BS 90cc bày bán ở Hoa Kỳ.

Photobucket
Một xe BS-90 ST được quảng cáo trong một tạp chí ở Nhật Bản.

Tham gia cuộc chạy đua

Trên mặt trận cạnh tranh, Bridgestone hỗ trợ các giải đua Japanese National Road Racing Championship, tham gia với đội xe đua của cơ xưởng trong cả hai loại 50cc và 90cc. Chỉ để đảm bảo rằng tên xe máy BS phải được chú ý, những bộ cơ phận "đua độ" cũng đã được sản xuất sẵn dành cho các sở hữu chủ tư nhân với số lượng hạn chế để sửa đổi nâng cấp các xe 50cc và 90cc bình thường thành xe đua với đầy đủ đặc điểm kỹ thuật. Trong năm 1964 và 1965, Bridgestone là sự lựa chọn thành công nhất trong hai kiểu xe này. Trong khi đó, các nhà nhập cảng Hoa Kỳ đã khuyến khích nhà máy Bridgestone sản xuất một số lượng hạn chế các bộ máy "đua độ" để cạnh tranh trong việc đua đường trường và đua đường bụi bẩn ở Hoa Kỳ, và những xe đua của nhà máy xuất hiện trong những năm 1965 và 1966 như các kiểu xe 90, 100 và 175 'SR', mỗi kiểu dựa trên những chiếc xe mô-tô bình thường tương ứng. Sản phẩm xe đua SR là sự thành công đáng kể trong tay của nhiều tay đua người Mỹ trên các cuộc đua đường đất và đường tráng nhựa.


Photobucket


Photobucket

Photobucket
Những trang quảng cáo xe Bridgestone với cơ phận "đua độ" của công ty Rockford đăng trên các tạp chí về xe mô-tô ở Hoa Kỳ.

Trong năm 1965, chi bộ xe đua của nhà máy đã thiết kế máy xi-lanh đôi làm mát bằng nước EJR-1 50cc. Máy này trông giống như máy xe Suzuki RK-65 Grand-Prix mà hảng Suzuki đã chinh phục nhiều cuộc đua trong năm 1967 (với xe Suzuki cải tiến RK-67). Năm 1966 máy xe đua EJR-2 đã được cải thiện nhiều và với chủ đích là được tham dự vào cuộc đua tại Isle of Man TT năm đó - theo bước chân của các ngài Honda, Yamaha và Suzuki. Thật không may, năm 1966 cuộc đua TT (Tourist Trophy) đã bị trì hoãn bởi cuộc đình công của các thủy thủ hàng hải và đội BS đã không thể tham dự cuộc đua mới mẽ nầy. Thay vào đó, ba xe máy EJR-2 đã được thử nghiệm và chứng minh tại một số trường đua ở châu Âu - kể cả trường đua Brands Hatch - và đã được tham dự các cuộc đua TT Hà Lan tại Assen.

Photobucket
Tommy Robb trên một xe đua 50cc BS EJR-2, theo kết quả cuộc đua mùa 1966 không có xe đua BS nào về nhất - Tommy Robb đứng hạng 9, Isao Morishita và Jack Findlay đồng hạng thứ 13 (theo kết quả World 50cc GP Championship).


Photobucket
Một xe đua Bridgestone 50cc máy đôi EJR-1.

Photobucket
Một xe đua Bridgestone 50cc máy đôi EJR-2

Photobucket


Photobucket
Bộ máy xe đua EJR-2 mát máy bằng nước với 2 xi-lanh cùng 2 bộ chế hoà khí đươc thiết kế ở 2 bên thân máy trước khi cung cấp khí đốt thẳng vào bộ van hút nằm trên cốt trục máy.

Trong cuộc đua xe đã được điều khiển bởi Tommy Robb, Jack Findlay và Isao Morishita, Bridgestone đạt được thứ hạng
 5, 6 và 9, nhưng vẫn còn đứng sau xa so với các xe Suzuki máy đôi đã được cải thiện rất nhiều trong thời gian ấy. Các chi phí điều hành một đội ngũ xe đua Grand-Prix đầy đủ quy mô rất tốn kém, cùng với sự giảm sút trong việc sản xuất xe máy từ ban lãnh đạo cao cấp ở Tokyo, dẫn đến việc đóng cửa các đội đua vào cuối năm 1966. May mắn thay các xe đua Bridgestone máy đôi xi-lanh đã không bị đưa vào máy nghiền. Ít nhất hai xe đua vẫn còn tồn tại - 2 xe đua đời năm 1965 và 1966 đang được trưng bày trong Bảo tàng Ô-tô Fuji tại Nhật Bản, xe đua đời năm 1966 được Ken Suzuki cho mượn, ông ta là người quản lý cuộc đua cho Bridgestone tại thời điểm đó.

Photobucket

Photobucket
Một xe đua Bridgestone 50cc máy đôi EJR-2 ngày nay.

Trở ngại về kinh tế

Quay trở lại Nhật Bản, sự thành công thương mại của các bộ phận xe gắn máy đã bắt đầu tạo ra những vấn đề riêng của nó. Dây chuyền sản xuất đã phải chia sẻ cơ sở chung với công ty lốp xe tại nhà máy Ageo gần Tokyo kể từ năm 1949. Bây giờ cả hai bộ phận lốp xe và xe gắn máy cần phải tăng sản xuất để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, và đơn giản rằng không có chỗ cho sự mở rộng cần thiết trong các nhà máy hiện có. Đã có quyết định rằng công ty lốp xe nên được phân bổ tăng thêm không gian tại nhà máy mặc cho dòng xe gắn máy thua thiệt.

Photobucket

Photobucket
Hai kiểu xe Bridgestone: BS-90 Sport và BS-175 Dual Twin.

Bên bộ phận xe máy của Bridgestone đã luôn luôn được xem như phần nào ở bên lề, với lợi nhuận được tái đầu tư vào ngân quỹ công ty mẹ chứ không phải là được sử dụng cho việc thiết kế và phát triển của dòng xe máy mới có thể bán ra. Sự phát triển được quan tâm đến là loại xe đua băng đồng và xe đua xe đường trường. Các mô hình sản xuất mới xuất hiện vào cuối những năm sáu mươi là những kiểu đã được cập nhật hoặc thêm thắt mỹ thuật (như xe175 Hurricane và 350 GTO scramblers), hoặc chỉ đơn giản là phiên bản nông xoáy xi-lanh máy của các mô hình hiện có (trong khung loại BS 100 và BS 200). Những kiểu xe mới được sản xuất trong giai đoạn này - BS 100GP và BS 100 TMX - tái sử dụng động cơ xe BS 90 quá quen thuộc trong một khung xe hầu như là một phiên bản thu nhỏ của xe BS 175 Dual Twin.

Photobucket
Một kiểu xe Bridgestone BS-100 TMX - trong khi giới tiêu thụ chờ đợi những kiểu xe mới với kỹ thuật tân tiến thích ứng với loại xe chạy băng đồng và đường mòn thì hảng Bridgestone chỉ thay đổi hình dáng mỹ thuật, sử dụng lại khối máy 90cc cũ xoáy nông lòng xi-lanh lên 100cc.

Photobucket
Một xe Bridgestone BS-175 Hurricane.

Photobucket
Kiểu xe Bridgestone BS-350 GTR.

Photobucket
Kiểu xe Bridgestone BS-350 GTO.

Ở Hoa Kỳ, việc vận động chống ô nhiểm môi trường ngày càng được đặt ra là một mối đe dọa nghiêm trọng đến doanh số bán hàng trong tương lai của xe động cơ hai thì, và điều này tất nhiên là thị trường xuất khẩu chính của Bridgestone.

Giá bán xe Bridgestone tại Hoa Kỳ cũng là vấn đề, mặc dù sản phẩm có chất lượng tốt và kỹ thuật cao, một chiếc xe Bridgestone BS-350 GTR rao bán với giá $900 USD (tương đương với $6000 USD ngày nay) so với một xe ô-tô cơ bản Ford hoặc Chevrolet mới toanh với giá $2000 USD trong khi giá bán một xe mô-tô cùng dung tích máy như Honda hoặc Yamaha chỉ là $700 USD.

Photobucket
Hình quảng cáo xe Bridgestone BS-350 GTR trong một tạp chí ở Hoa Kỳ.

Mặt khác hình ảnh xe Bridgestone không có sức hấp dẩn người tiêu thụ - thập niên 50 không có ai để ý đến xe máy nhật - qua thập niên 60 với những cuộc đua xe được các hảng Honda, Suzuki, Yamaha và Kawasaki tranh nhau thắng giải Grand Prix, thế giới bắt đầu nhìn về các loại xe nhật - tiếc rằng lãnh đạo Bridgestone quyết định rút lui đoàn xe đua sau một năm tranh giải, không cho phép đoàn đua xe phát triển để hy vọng thắng giải trong những năm kế tiếp hòng tạo hình ảnh chiến thắng và đáng tin cậy cho sản phẩm Bridgestone, cần nhắc lại rằng Soichiro Honda đã thất bại 7 năm liên tiếp trước khi đoạt được giải GP đầu tiên!

Ngoài ra, Công ty lốp xe Bridgestone là nhà cung cấp chính thức lốp xe cho các nhà sản xuất xe máy Nhật Bản khác và người ta cho rằng những công ty này có thể không cần phải quá quan tâm để mua lốp lắp vào xe của họ từ một nhà sản xuất xe máy đối thủ khi những nguồn cung cấp khác có sẵn. Dù vì bất cứ lý do nào, Bridgestone quyết định đóng cửa bộ phận sản xuất xe máy trong năm 1970-1971. Các đại lý và mạng lưới bán hàng ở Anh đã đóng cửa sau đó, và sự sụp đổ của mạng bán xe ở các nước khác nhanh chóng theo sau.

Giai đoạn kết thúc dòng xe Bridgestone


Khi Bridgestone đóng cửa bộ phận sản xuất xe mô-tô tại Nhật Bản, thì hảng Daihatsu vẫn tiếp tục sản xuất nhượng quyền các động cơ 50cc cho đến năm 1979. Các bản quyền và dụng cụ sản xuất cho các kiểu xe 60cc và 100cc máy đơn được bán cho BS Tailung của Đài Loan. Công ty này - không có liên hệ với Công ty Xe đạp Bridgestone - tiếp tục sản xuất xe chạy đường mòn và xe máy mini cho thị trường Hoa Kỳ, họ sử dụng các công cụ Bridgestone trong phần thiết kế mới. Họ đã bán xe tại Hoa Kỳ cho đến năm 1975 qua công ty Rockford Motors (là nhà nhập khẩu BS cũ) như các kiểu xe Rockford "Chibi", "Taka" và "Tora".


Photobucket

Photobucket
Kiểu xe BS Chibi sản xuất bởi BS Tailung Đài Loan và hình ảnh chiếc BS Chibi ngày nay do hội người yêu chuộng xe Bridgestone tại Hoa Kỳ.

Với việc đóng cửa dây chuyền sản xuất Đài Loan vào năm 1975, dòng họ xe máy Bridgestone cuối cùng đã kết thúc. Tên BS được ngày nay kết hợp với lốp xe và xe đạp, nhưng một số lượng đáng kể xe máy Bridgestone vẫn còn tồn tại ở Anh, Hoa Kỳ, và Úc, các chủ xe này vẫn ôm ấp một đam mê về một nhãn hiệu sẽ không bị quên lãng và sẽ tồn tại mãi mãi hơn là một kỷ vật từ những năm tháng trôi qua.

Phỏng dịch và bổ sung từ bài viết của Graham Weeks đăng trên Bản tin Vintage Japanese Motorcycle Club Newsletter vol. 19, nos. 2 & 3 (Apr & Jun 1996). 

Đây là câu chuyện về những chiếc xe máy Nhật đã đi vào huyền thoại sau cuộc chiến khốc liệt về công nghệ xe máy kéo dài gần 3 thập niên tại Nhật Bản sau khi Đệ Nhị Thế Chiến 1939-1945 chấm dứt, hai công ty trong số hơn 200 nhà sản xuất xe máy đã biến mất trên thị trường: Yamaguchi và Hodaka.
Sơ lược xe máy Yamaguchi

Nhật Bản sau cuộc chiến tranh khủng hoảng tàn phá, có rất nhiều công ty tranh giành để tồn tại. Trong tháng ba năm 1946, các chi bộ ô tô của Công ty Sản xuất ô tô động cơ diesel đã được chia thành nhóm các xe tải Hino và công ty sản xuất ô tô Isuzu. Chi bộ hàng không đã trở thành Hitachi Aviation. Phát triển công nghệ hàng không bị nghiêm cấm bởi lực lượng Đồng Minh khi ấy chiếm đóng Nhật Bản, công nghệ hàng không được coi là một ngành công nghiệp chiến tranh. Vì vậy, Hitachi Aviation cũng như các công ty máy bay khác của Nhật đã cố gắng tồn tại trong những ngành công nghiệp không liên quan đến chiến tranh.

Photobucket
Một logo Yamaguchi trên bình xăng xe AP10

Photobucket
Những cổ máy Villers mà Fuji Motor dựa vào để chế tạo động cơ

Hitachi sau đó thay đổi tên của nó để trở thành Công ty Tokyo Gas and Electric Manufacturing Company chuyên sản xuất điện và hơi đốt, trong năm 1952, công ty bắt đầu sản xuất động cơ 60cc 2-thì nhỏ dùng cho xe máy. Sáp nhập với Fuji Automobile, và cùng nhau, họ sản xuất xe máy của mình dưới thương hiệu Fuji Motor và Gasuden FMC. Họ cũng cung cấp các công cụ cho các nhà sản xuất xe gắn máy khác, chẳng hạn như Miyata, Zebra, Yamaguchi, Hikari, và Lucky. 

Photobucket
Một xe đạp Yamaguchi được gắn động cơ Fuji Gasuden trong đầu thập niên 1950

Photobucket
Một xe Yamaguchi ZPS năm 1953 với cổ máy Fuji Motor 

Yamaguchi bắt đầu sản xuất xe đạp vào năm 1914, sau đó công ty Yamaguchi thoạt tiên kết hợp với Fuji Motor để sản xuất dòng xe Gasuden FMC (Fuji Motor Corporation)vào giửa thập niên 1950 bởi vì họ đã có kinh nghiệm trong việc chế tạo khung xe. Người sáng lập công ty Yamaguchi là ông Shigehiko Yamaguchi trong đầu thập niên 1950 đã đi thăm viếng các nhà máy sản xuất xe mô-tô ở Hoa Kỳ và Châu Âu để nghiên cứu thị trường, cung cách sản xuất và điều hành thương mại.

Photobucket
Một trang quảng cáo xe Yamaguchi PO50

Photobucket
Một trang quảng cáo xe Yamaguchi 330 125cc vào giửa thập niên 1950

Photobucket
Một xe Yamaguchi VC 125cc Deluxe

Photobucket
Một kiểu xe mô-tô thực sự đầu tiên của Yamaguchi 90cc

Photobucket
Một xe Yamaguchi 80cc động cơ Hodaka

Trong đầu thập niên 1950, ngoài việc kết hợp với Fuji Motor để sản xuất xe Gasuden FMC và sản xuất xe mô-tô cở nhỏ 50cc, 80cc, 90cc và 200cc dưới thương hiệu Yamaguchi với những động cơ của công ty Hodaka cung cấp, Yamaguchi còn sản xuất các khung xe cho các nhà lắp ráp xe máy khác với thương hiệu riêng của họ bán tại Nhật Bản.

Photobucket
Xe Yamaguchi SPB50, kiểu đầu tiên nhập cảng vào Hoa Kỳ

Photobucket
Một xe Yamaguchi SPB50 ngày nay trong một bảo tàng xe máy ở Nhật Bản

Photobucket
Quảng cáo xe Yamaguchi trong một tạp chí ở Hoa Kỳ

Năm 1963, công ty Yamaguchi phá sản, khánh kiệt do các ngân khoản vay từ ngân hàng buộc phải đóng cửa kéo theo hàng loạt các công ty khác chuyên lắp ráp xe máy, không còn nhà cung cấp khung xe nên mất khách cũng lần lượt buộc họ phải đóng cửa.

Từ xe máy Yamaguchi đến Hodaka

Một trong những công ty thoát khỏi cuộc phá sản của công ty Yamaguchi là Hodaka, cũng là một công ty chuyên lắp ráp xe máy tại Nhật Bản trong đầu thập niên 1950, Hodaka là một trong những công ty chuyên sản xuất động cơ 2 thì có liên hệ mật thiết với Yamaguchi vì thoạt tiên Hodaka là khách hàng mua khung xe sản xuất bởi Yamaguchi và ngược lại Yamaguchi mua động cơ của Hodaka sản xuất.

Photobucket
Xe Yamaguchi được khuyến mãi tại Hoa Kỳ qua công ty Pabatco (Pacific Basin Trading Co.)

Photobucket
Một xe Yamaguchi cải tiến với động cơ Hodaka 80cc với hộp số gồm 4 số

Nhờ sự tháo vát của các lãnh đạo công ty, Hodaka đã xuất cảng sản phẩm của mình qua Đài Loan, Hibino Masanori, lãnh đạo công ty Hodaka kể lại:

"Thoạt đầu, hảng xe đạp Yamaguchi sử dụng động cơ nhái theo kiểu Villiers do hảng Fuji Motor cung cấp để sản xuất xe máy Gasuden nhưng sau đó thì họ sử dụng các cổ máy 50cc và 90cc cùng bộ truyền động của chúng tôi rồi thì Fuji Motor cũng dựa trên các kiểu xe Yamaguchi nầy để nhái lại kiểu xe. Chúng tôi sau đó cung cấp các cổ máy 50cc, 80cc, 90cc và 200cc cho Yamaguchi và trong thời cao điểm, chúng tôi cung cấp cho Yamaguchi 4.000 cổ máy 50cc mỗi tháng. Kể từ năm 1954 những công ty lắp ráp xe máy bị khánh kiệt lần lượt rơi rụng và có những công ty khách hàng của chúng tôi - Toyo Motors, Mishima Motors, Osaka's Jet, Tokyo's Health và sau cùng là công ty xe đạp Yamaguchi. Hodaka đối diện với cơn khủng hoảng ngay tại văn phòng và nhà máy ở Nagoya và cũng ngay cả nhà máy mới xây dựng ở Kasadera nhằm mục đích sản xuất dây chuyền cổ máy 50cc cho hảng Yamaguchi. Củng như nhà máy lớn chuyên sản xuất động cơ nông nghiệp của Toyota và Mitsubishi vừa chuyển sang sản xuất động cơ xe máy cũng bị khó khăn, ảnh hưởng lây khi hảng Yamaguchi đóng cửa. Chúng tôi vừa mới triển khai thêm phân xưởng vì phải cung cấp từ 60% đến 70% tổng số công việc cho hảng Yamaguchi. Chúng tôi vừa tăng thêm lực lượng lao động đến 200 người nhưng với sự sụp đổ của hảng Yamaguchi, chúng tôi đành cắt giảm còn phân nửa mặc dù thế, chúng tôi còn có thể củng cố được. Một số công nhân độc lập về nghỉ hưu và số công nhân còn lại là giới trẻ. Củng may cho công ty Hodaka, khi hảng Yamaguchi gặp khó khăn về ngân khoản đưa đến phá sản thì chúng tôi vừa giao thương với Đài Loan. Chúng tôi thiết lập các chi nhánh và bắt đầu bán động cơ cùng hộp số cho các nhà lắp ráp xe máy tại đây. Cảm ơn trời đã giúp chúng tôi thanh lý những cổ máy tồn kho dành cho Yamaguchi (chẳng hạn như số lượng động cơ đã sản xuất dành bán riêng cho Yamaguchi), và chúng tôi tiếp tục sản xuất những động cơ mới... Bất kể sự khủng hoảng gây ra từ hảng Yamaguchi đóng cửa, chúng tôi vẫn phục hồi việc kinh doanh qua việc giao thương với Đài Loan. Chúng tôi tiếp tục bán động cơ cho Đài Loan được 4 năm nhưng do luật lệ mới khắt khe hơn trong việc nhập cảng ở Đài Loan nên chúng tôi bắt đầu giao dịch thương mại với Hoa Kỳ, chúng tôi bắt tay vào việc thiết kế sản phẩm phù hợp với thị trường mới và từ từ cắt giảm việc xuất cảng động cơ đến Đài Loan."

Pabatco kinh doanh xe máy Yamaguchi và Hodaka

Một sự việc quan trọng trong lịch sử xe máy Yamaguchi và Hodaka là công ty Pabatco - Pacific Basin Trading Company - là một công ty con của tập đoàn Farm Chemical of Oregon tại Hoa Kỳ. Trụ sở công ty Pabatco đặt tại thị xã Athena, phía đông bắc tiểu bang Oregon, nằm sát thành phố Pendleton về phương bắc. Pabatco đang tìm kiếm đối tác nước ngoài để trao đổi thương vụ.

Đồng thời với công ty Honda vừa đặt chân đến Hoa Kỳ kinh doanh, Yamaguchi cũng nối bước tìm kiếm thị trường bên ngoài Nhật Bản đã gặp công ty Pabatco tiếp xúc mở thị trường kinh doanh. Vào năm 1961, Pabatco bắt đầu nhập các kiểu xe Yamaguchi 49cc và 80cc và đã chứng tỏ đã đem lợi nhuận đến cho công ty nằm ở bang Oregon.

Không may cho Yamaguchi trong cuộc chiến tranh khốc liệt về xe máy hơn 20 năm qua tại Nhật Bản đã đến cao điểm, giá mua cơ phận rời cùng giá thành sản phẩm đã không theo kịp các đại gia xe máy khác trường vốn và kỹ thuật cao tại Nhật, Yamaguchi tuyên bố phá sản và đóng cửa vào năm 1963. Kiểu xe Yamaguchi cuối cùng bán tại Hoa Kỳ là chiếc xe 80cc với động cơ Hodaka 2-thì.

Photobucket
Một logo trên bình xăng của xe máy Hodaka tại Hoa Kỳ

Với món hàng mang đến nhiều lợi nhuận nay biến mất, trong khi những đại lý phân phối và nhu cầu người tiêu dùng còn cao về những chiếc xe máy nhỏ, một số thành viên công ty Pabatco trong đó có Harry "Hank" Koepke và Adolph Schwartz bàn bạc với nhau, họ cùng thiết lập một bản vẽ và thiết kế về một xe máy kiểu chạy trên đường đất đồng ruộng và liên lạc với công ty chế tạo động cơ cho xe Yamaguchi không ai khác hơn là Hodaka.

Photobucket
Một trang quảng cáo xe Hodaka Dirt Squirt trong một tạp chí

Photobucket
Động cơ Hodaka Ace 100 trong khung xe do các kỹ sư Pabatco vẽ kiểu

Khi liên hệ với công ty Hodaka, họ đã thử chế tạo một khung xe mới gắn động cơ Hodaka để chạy thử ở thị xã Athena và rất bằng lòng với mô hình kiểu xe mới nầy, một kiểu xe đua đường băng đồng với bộ khung thép ống hình tam giác và bộ máy Hodaka cải tiến với công suất mạnh hơn kiểu xe Yamaguchi - họ đem bảng vẽ cùng chi tiết đến Nhật Bản. Hank được giám đốc công ty Hodaka tiếp đón, sau khi bàn bạc về kiểu xe mới, Hodaka nhận việc sản xuất những cổ máy 2-thì mới có công suất cao, không những thế, Hodaka còn nhận thêm việc sản xuất khung xe theo thiết kế và bảng vẽ của Pabatco cùng lắp ráp nguyên chiếc trước khi xuất khẩu sang Hoa Kỳ và việc sản xuất xe mới bắt đầu vào năm 1964.

Xe Hodaka tại Hoa Kỳ

Kiểu xe đầu tiên Hodaka-Pabatco là Ace 90 với động cơ 89cc cải tiến từ kiểu Yamaguchi 80cc, là một kiểu xe chạy trên đường tráng nhựa nhưng có khả năng chạy trên đường đất sình lầy, thích hợp với dân cư ở các vùng sâu xa mà những con đường sỏi đá gồ ghề không cho phép các dòng xe mô-tô lớn lưu thông. Với công suất khoảng 8 mã lực, nặng 80 kg, Hodaka Ace 90 với cổ máy 2-thì đơn giản với hộp số gồm 4 số so với hộp số xe Yamaguchi 80cc chỉ có 3 số, dể bảo trì đã là một thành công lớn của công ty Pabatco đối đầu với xe máy 2-thì nhỏ của Harley-Davidson (xe Harley-Davidson 2-thì là loại xe máy nhỏ chạy đường tráng nhựa).

Photobucket
Hodaka Ace 90, kiểu xe đầu tiên của Hodaka được Pabatco kinh doanh ở Hoa Kỳ

Trong những năm đầu, Pabatco bán được khoảng 17.000 xe Hodaka Ace 90 với giá $379 USD đã là một thành công lớn, chỉ một vài chi tiết cải tiến như đèn chiếu hậu lớn hơn và bánh xe sau là loại lốp xe chạy đường đất sình lầy được lắp ráp chính thức trên các đợt xe cuối cùng. Qua năm 1968, Pabatco ra mắt kiểu xe Hodaka Ace 100, với lòng xi-lanh được nông lớn hơn đến 98cc, công suất 9,8 mã lực với vòng máy 7.500 vòng/phút, hộp số mới với 5 số chân và bộ nhún sau được cải tiến lớn hơn. Hodaka Ace 100 cũng là một xe máy chạy đường nhựa và là một kiểu xe mà những xe khác khó có thể cạnh tranh được trên đường đất sình lầy.

Photobucket
Xe Hodaka Ace 100 cải tiến từ xe Ace 90 vào năm 1968

Hodaka cũng sản xuất các cổ máy 2-thì cho các nhà chuyên lắp ráp xe máy khác, tuy nhiên ở Hoa Kỳ xe máy Hodaka vẫn do mạng lưới công ty Pabatco bán ra và đảm nhận bảo trì dòng xe Hodaka. Năm 1969, Hodaka quyết định phát triển dòng xe máy chạy trên đường đất với các kiểu xe thực sự thuộc dòng xe "motocross", với các kiểu xe đua đường băng đồng mà kiểu đầu tiên là Hodaka Super Rat, kiểu xe cải tiến từ Hodaka Ace 100. Từ các kiểu xe nầy, Hodaka đã đoạt nhiều giải thưởng trong các cuộc đua xe băng đồng tổ chức tại Hoa Kỳ - vào thời điểm ấy, khi nói đến việc chạy đua trên đường sình lầy là người ta nghỉ đến ngay dòng xe Hodaka.

Photobucket
Hodaka Super Rat, một kiểu xe motocross cải tiến từ xe Hodaka Ace 100

Năm 1972, ra mắt kiểu xe Hodaka Wombat 125. Qua năm 1973 có thêm kiểu Hodaka Dirt Squirt và năm 1974 lại ra mắt xe Hodaka Combat Wombat và Super Combat, một xe cải tiến từ kiểu Super Rat với động cơ mạnh hơn và dể điều khiển trên đường đất sình lầy. Tổng cộng có tất cả 15 kiểu xe Pabatco thiết kế và Hodaka sản xuất bán tại Hoa Kỳ.

Tuy nhiên, cuối thập niên 1960, các đại gia xe máy Nhật khác đã thấy được sự thành công rực rở của xe máy Hodaka trên các đường làng hẻo lánh thôn quê. Yamaha cho ra mắt kiểu xe motocross đầu tiên vào năm 1968, chiếc Yamaha DT-1 với những chi tiết kỹ thuật cao, năm 1973 đến lượt Honda, chuyên sản xuất xe chạy đường nhựa với những động cơ 4-thì cũng chen chân vào dòng xe motocross với kiểu Honda Elsinore với cổ máy 2-thì nhằm cạnh tranh trực tiếp dòng xe Hodaka.


Photobucket
Yamaha DT-1 trang bị máy 2 thì 250cc ra mắt vào năm 1968 bán sạch ngay đợt đầu tiên nhập cảng vào Hoa Kỳ, nhằm cạnh tranh trực tiếp với xe Hodaka

Không có cách nào khác hơn, Hodaka cũng buộc phải cải tiến các kiểu xe motocross của mình trong cuộc chiến sống còn về xe máy, Hodaka phát triển dòng xe 175cc và 250cc với kiểu xe Hodaka Thunder Dog là kiểu xe motocross rất chỉnh cho các tay đua xe đường đất sình lầy. Nhưng đối đầu với bộ "Tứ Đại Gia" (Honda, Kawasaki, Suzuki và Yamaha), với những kỹ thuật cơ khí cao và phương pháp sản xuất dây chuyền hoàn mỹ cho phép họ bán xe với giá thành hạ; số xe máy Hodaka bán ra từ từ tuột giốc.



Photobucket
Với những kiểu xe Trail động cơ 4 thì chạy đường đất trong thập niên 1960, Honda nhập cuộc với kiểu xe mới Honda 125 MT Elsinore năm 1973 với động cơ 2 thì

Photobucket
Không chỉ là một kiểu motocross 125 MT Elsinore nhằm cạnh tranh với các xe máy khác, Honda trình làng sau đó kiểu Honda 250 CR, một xe đua motocross với động cơ 2 thì

Cơn bảo cuối cùng thổi đến công ty Pabatco, tập đoàn Shell Oil vừa mua lại công ty mẹ của Pabatco là Farm Chemical of Oregon và thanh tra tất cả ngân khoản tài chính, họ không thấy nguồn lợi nhuận gì nhiều từ việc kinh doanh xe máy của Pabatco nên quyết định đóng cửa vào năm 1978. Công ty Hodaka tại Nhật Bản chỉ còn tồn tại qua việc cung cấp động cơ và cơ phận rời cho các nhà lắp ráp xe máy khác thêm được 2 năm cũng đành đóng cửa vì khánh kiệt vào năm 1980. Hodaka bán tất cả các thiết bị cùng các máy móc công cụ sản xuất động cơ cho công ty Daelim ở Nam Hàn.


Photobucket
Ngày nay vẫn còn những lể hội gặp mặt của những người sử dụng xe Hodaka, nhắc nhở đến huyền thoại chiếc xe máy hợp tác Mỹ-Nhật của 2 công ty Hodaka và Pabatco.

Ngày nay dòng xe motocross Hodaka tại Hoa Kỳ chỉ còn lại nhựng người đam mê xe máy bảo trì lấy và tổ chức những cuộc đua xe nhắc nhở đến thời kỳ xe máy Hodaka trên các đường đất gồ ghề sỏi đá và sình lầy ở các vùng sâu xa đã trở thành những kỷ niệm đẹp trong đời sống của họ.


Vài kiểu xe Hodaka

Photobucket
Hodaka  Combat Wombat 125cc

Photobucket
Hodaka Dirt Squirt 100cc

Photobucket
Hodaka 250 ED

Photobucket
Hodaka 250 SL

Photobucket
Hodaka Dirt Squirt 80, kiểu xe cuối cùng của 2 công ty hợp tác: Hodaka và Pabatco